logo

DIỄN ĐÀN Y HỌC CỘT SỐNG VIỆT
Tay đến làm bệnh lui!


Thông báo

Icon
Error

Trả lời
Từ:
Nội dung:

Số ký tự tối đa cho một bài viết là: 32767
Đậm Nghiêng Gạch chân   Highlight Trích dẫn Choose Language for Syntax Highlighting Chèn ảnh Tạo liên kết   Unordered List Ordered List   Canh lề trái Canh giữa Canh lề phải   Outdent Indent   Thêm BBCode Tags
Màu chữ: Cỡ chữ:
Mã an ninh:
Nhập mã an ninh:
  Xem trước gửi Cancel

Last 10 Posts (In reverse order)
thuylt Đã gửi: 10/07/2017 lúc 09:51:47(UTC)
 
PHẦN IV
CÁC NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG THỨC VÀ THỦ THUẬT TRỊ BỆNH
A. CÁC NGUYÊN TẮC TRỊ BỆNH
I - NGUYÊN TÁC TẠO SÓNG CẢM GIÁC:
Cảm giác là một trong bốn đặc trưng của trọng điểm tại đốt sống biến đổi. Phương pháp Tác động cột sống Việt nam chia cảm giác thành 2 hệ: Hệ khách quan và hệ chủ quan.
Hệ khách quan: Là cảm giác đau khu trú ở trên các đốt sống bị biến đổi nhưng chỉ khi nào có tác động khách quan tại các đốt sống đó thì người bệnh mới thấy có cảm giác đau, ngoài ra người bệnh không tự nhận thấy đau.
Hệ chủ quan: Là cảm giác đau mà người bệnh tự nhận thấy như cơ thể mệt mỏi, tinh thần bạc nhược, cảm giác đau đớn, nhức buốt, tẽ bì, nóng lạnh hoặc cảm giác mơ hồ khác. Các cảm giác này người bệnh tự nhận thấy có trên toàn bộ cơ thể hoặc khu trú tại một vùng nhất định nào đó.
Ví dụ : Bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng do thoái hoá cột sống thắt lưng, vôi hoá, gai đôi, thoát vị đĩa đệm thì cảm giác đau này là cảm giác đau chủ quan do bệnh ở cột sống, tự bệnh nhân nhận thấy được cảm giác đau này.
Nếu bệnh nhân bị đau ở cánh tay và cổ tay mà vùng ngực trái nóng cao, khi đó ta dùng thủ thuật tác động vào đốt sống T3 và T4 thì bệnh nhân sẽ thấy đau ở điểm tác động. Cảm giác đau ở cánh tay và cổ tay là cảm giác đau chủ quan, cảm giác đau ở hai đốt sống T3 và T4 là cảm giác đau khách quan.
Trong quá trình nghiên cứu về mối liên quan của cảm giác đau chủ quan và cảm giác đau khách quan chúng tôi nhận thấy : Cảm giác đau chủ quan là cảm giác đau xuất phát từ ổ bệnh. Cảm giác đau khách quan là cảm giác đau ở điểm đau tương ứng với cảm giác đau ở 0 bệnh. Khi thao tác tại điểm đau khách quan thì cảm giác đau ổ bệnh sẽ giảm dần rồi hết hẳn.
Đặc tính cảm giác đau tại trọng điểm: Cảm giác đau tại trọng điểm nếu được tác động thì ở điểm đó cảm giác đau sẽ từ đau nhất đến giảm đau rồi hết đau hoàn toàn.
Cảm giác đau với phản ứng co cơ :
Có cảm giác đau ở trọng điểm cho thấy nếu một khi được tác động tới ( lúc đó bệnh nhân thấy đau đo tác động ) thì liền có sự phản ứng của gân cơ gây co. Khi ngừng tác động thì gân cơ buông trùng lại. Nếu tác động mau thì gân cơ co và trùng mau, tác động thưa thì gân cơ co và trùng thưa.
Khi chưa tác động vào trọng điểm, bệnh nhân chưa thấy đau. Khi tác động vào trọng điểm tức là ta tác động vào những sợi cơ xơ co nhỏ như sợi tóc (đối với những bệnh nội tạng) cho đến những sợi cơ to như chiếc đũa (đối với bệnh về chức năng vận động) sẽ làm cho những sợi này căng ra và gây nên cảm giác đau tại trọng điểm; Khi đó cơ thể liền có sự tự điều chỉnh bằng cách buông trùng gân cơ của những sợi cơ co đó lại; và cứ sau mỗi nhịp co trùng như vậy, những sợi cơ co tại trọng điểm sẽ trùng ra và cảm giác đau tại trọng điểm sẽ giảm dần rồi hết hẳn.
Phương pháp Tác động cột sống Việt nam đã lấy cảm giác đau tại trọng điểm để gây sự phản ứng của gân cơ co trùng sen kẽ nhịp nhàng thành lớp lớp sóng thích họp nhất giải tỏa ổ rối loạn trên hệ cột sống, phục hồi lại sự cân bằng của cơ thể. Từ đó hình thành tên gọi Sóng cảm giác.
Sự phản ứng của cơ thể khi tác động điều trị.
Trong khi tác động trên cột sống để trị bệnh, tạo cảm giác đau tại trọng điểm, bao giờ trên cơ thể người bệnh cũng có những phản ứng nhất định chia thành 2 loại: Phản ứng dương tính và phản ứng âm tính.
Phản ứng dương tính có các thể:
Thể phản ứng dương tính toàn thân : Là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co giật toàn thân, gân cơ cứng lại, khi không tác động thì gân cơ trùng lại.
Thể phản ứng dương tính cục bộ: Là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co giật gân cơ từ vùng trọng điểm lan toả sang tới các khu vực nhất định, khi ngừng tác động thì gân cơ trùng lại.
Thể phản ứng dương tính hệ cột sống : Là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co lồi ở trên hệ cột sống, khi ngừng tác động thì gân cõ trùng lại (thích họp với bệnh ở trên ðốt sống lõm).
Thể phản ứng dương tính ở trên trọng điểm: Là khi tác động ở trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co cơ máy động ở trọng điểm. Khi ngừng tác động thì lớp cơ co ở trọng điểm cũng ngừng máy động ( thích hợp với các đốt sống lệch).
Phản ứng âm tính có các thể:
Thể phản ứng hệ cột sống : Là khi tác động tại trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co oằn cột sống, tại cột sống không có hiện tượng máy động. Khi ngừng tác động thì sự phản ứng cũng ngừng lại.
Khi điều trị gặp phản ứng này là biểu hiện sự điều trị gần đến ngưỡng, gần giải toả hết ổ rối loạn, thầy thuốc phải nhanh chóng tác động tiếp để giải tỏa 0 bệnh, không được bỏ lỡ cơ hội.
Thể phản ứng âm tính tại trọng điểm : Là khi tác động tại trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co lõm tại trọng điểm, không có sự lan tỏa.Trường hợp này thích hợp với đốt sống lồi.
II. NGUYỀN TẮC ĐỊNH LỰC
Định lực thao tác là sự quy định lực mạnh của thầy thuốc được phép dồn vào đầu ngón tay để thao tác trị bệnh. Sức mạnh này từ nhẹ nhất đến mạnh nhất được quy định như sau:
1/ Sức mạnh của một ngón tay : ứng dụng cho các trọng điểm khu trú trại vùng cổ từ C1 đến C7 và vùng cụt.
Hình thức của thủ thuật thao tác: Đặt nghiên bàn tay trên lưng người bệnh, ngón tay út và ngón tay thứ tư co vào lòng bàn tay, dùng ngón tay giữa thao tác tại trọng điểm. Tuỳ theo loại thể rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất đến mạnh nhất của ngón tay.
2/ Sức mạnh của một bàn tay : ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng lưng trên từ TI đến T7.
Hình thức của thủ thuật thao tác: Đặt úp lòng bàn tay trên lưng người bệnh, dùng dận bàn tay làm điểm tỳ, lấy ngón tay giữa hoặc ngón cái tác động tại trọng điểm, tuỳ theo thể loại rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất của một ngón tay cho đến lực tối đa của bàn tay.
3/ Sức mạnh của một cánh tay co, ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng giữa lưng từ T8 đến TI2.
Hình thức thao tác: Co cánh tay thành góc thước thợ (xấp xỉ 90°). Cánh tay khép sát thân mình, dùng ngón tay cái hay ngón tay giữa thao tác tại trọng điểm. Tuỳ theo thể loại rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất bằng lực của một ngón
tay và mạnh nhất bằng lực của cánh tay co .
4/ Sức mạnh của cánh tay thẳng: ứng dụng cho cả vùng thắt lưng L1 đến L5.
Hình thức thao tác : Duỗi thẳng cánh tay, dùng ngón tay thao tại trọng điểm. Tuỳ theo thể và loại rối loạn mà dùng bằng lực nhẹ nhất của một ngón tay và mạnh nhất bằng lực của cả cánh tay.
5/ Sức mạnh của toàn thân thầy thuốc: ứng dụng cho các khu trú tại vùng hông từ S1 đến S5.
Hình thức thao tác: Duỗi thẳng cánh tay, dồn toàn bộ lực của thầy thuốc vào dận bàn tay để thao tác tại trọng điểm. Tuỳ theo loại và thể rối loạn mà dùng lực nhẹ của một ngón tay cho đến mạnh nhất là lực của toàn thân thầy thuốc.
Các trường họp ngoại lệ:
- Loại mỏng, mềm, thể ngoài thì bất cứ ở khu vực nào trên cột sống cũng chỉ áp dụng bằng lực của một ngón tay tác động nhẹ nhàng.
- Loại xơ cứng bất cứ ở thể nào và khu trú ở khu vực nào trên cột sống cũng chỉ áp dụng bàng lực cánh tay co.
- Loại co cứng, dầy, thể ngoài, ngón tay không ấn tới đầu gai sống được thì phải đắp cua đồng (cua dùng nấu canh) cho giãn cơ rồi mới dùng lực thao tác.
III. NGUYÊN TẮC ĐỊNH HƯỚNG
Khi tác động trị bệnh phải có một hướng nhất định. Phương pháp Tác động cột sống căn cứ vào trục cột sống làm chỗ dựa để tìm tòi các thủ thuật thích họp, đồng thời dùng trục cột sống làm cơ sở để hướng mọi kích thích như gân, cơ, đốt sống trở lại cân bằng.
Trục theo phương pháp Tác động cột sống quan niệm là ống tuỷ sống. Các hiện tượng co cơ, các biến đổi hình thái của đốt sống, các rối loạn về nhiệt độ và cảm giác ở trên cột sống đều lấy trục nói trên làm đường đối xứng để so sánh giữa hai bên.
Để ứng dụng cho các hướng thích hợp với các thể và loại rối loạn cụ thể, phương pháp tác động đã quy định như sau:
1/ Đốt sống lồi tác động theo hướng thẳng từ ngoài vào trong.
2/ Lồi phần trên, dưới khuyết: tác động theo hướng từ trên xuống. Ngược lại nếu lồi phần dưới, phần trên khuyết thì tác động theo hướng từ dưới lên.
3/ Phần trên lồi dưới không khuyết hoặc dưới lồi trên không khuyết thì tác động theo hướng thẳng từ ngoài vào trong.
4/ Đốt sống lồi lệch một phần (trên .hoặc dưới) hay lồi lệch cả đốt :Tác động theo hướng chếch 45° từ ngoài vào trong và lực đẩy từ phía lồi lệch sang phía khuyết.
5/ Đốt sống lệch (lệch trên, lệch dưới hay lệch cả đốt) tác động theo hướng đưa ngang từ ngoài vào.
6/ Đốt sống lệch lõm (một phần hay cả đốt) tác động theo hướng lực đưa ngang từ ngoài vào rồi đưa tiếp từ trong ra theo hướng cuộn tròn (thủ thuận bỉ).
7/ Đốt sống lõm: Tác động song chỉnh bằng thủ thuật Bỉ ở cả hai bên cùng một lực.
IV: NGUYỀN TÂC ĐỊNH LƯỢNG
Nguyên tắc định lượng là một quy định về lượng tác động tính theo thời gian dài hay ngắn.
Thời gian tác động tại trọng điểm có tính quyết định về thời gian tác động đáp ứng đúng với mức tiếp nhận của cơ thể người bệnh thì hiệu quả cao, chưa đúng với mức tiếp nhận thì hiệu quả thấp, hoặc quá mức tiếp nhận thì cơ thể có sự phản ứng ngược lại, mà những kết quả điều trị ban đầu lại mất hết. Chính vì vậy, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định thời gian thao tác cho từng buổi chữa và thời gian cho quá trình điều trị là một nguyên tắc của phương pháp.
a/ Thời gian thao tác
Thời gian thao tác là một quy định cho thầy thuốc có tác động tại trọng điểm dài hay ngắn. Thời gian cho một lần điều trị dày hay ngắn không xuất phát từ sự áp đặt chủ quan tuỳ tiện của thầy thuốc mà phải căn cứ vào sự phản ứng của cơ thể người bệnh để ứng dụng cho thích hợp. Sự phản ứng đó biểu hiện bằng hiện tượng khô se của mặt da chuyển sang ẩm, ướt tại trọng điểm mà người thầy thuốc có thể nhận biết ngay dưới đầu ngón tay . Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định mức độ này là ngưỡng thao tác.
Trong khi tác động phải chú ý theo dõi:
1/ Khi trọng điểm còn khô se là thời gian tác động chưa đúng yêu cầu, chưa đến ngưỡng thao tác, nếu dừng thì hiệu quả không cao.
2/ Khi trọng điểm đã ẩm ướt là hiệu quả tác động đã cao nhất và đến ngưỡng thao tác, đúng mức độ tiếp thu của cơ thể người bệnh. Vì vậy, cần ngừng ngay thao tác.
3/ Khi mặt da tại trọng điểm đã chuyển sang ẩm ướt mà vẫn tiếp tục thao tác là quá ngưỡng, quá mức tiếp nhận của cơ thể tạo nên một phản xạ ngược lại do bị kích thích quá mức, mà những kết quả ban đầu bị xoá hết, việc điều trị trở nên không có hiệu quả.
Ví dụ: về điều trị bệnh huyết áp cao.
1/ Khi thao tác mà trọng điểm chưa ẩm ướt, huyết áp cũng có thể xuống, nếu ngừng thao tác hiệu quả không cao và tác dụng không lâu dài.
2/ Ngừng thao tác lúc trọng điểm đã ẩm ướt là đúng mức tiếp nhận của người bệnh thao tác đã đến ngưỡng. Huyết áp giảm xuống và hiệu qủa điều trị kéo dài.
3/ Khi trọng điểm đã ẩm ướt mà vẫn thao tác tiếp thì huyết áp không những không xuống thêm nữa mà còn trở lại trạng thái ban đầu và còn có thể tăng cao hơn.
Trong khi điều trị, thầy thuốc cần tập trung cao độ theo dõi về sự phản ứng của cơ thể người bệnh vì dễ bị lầm lẫn ngưỡng thao tác. Chẳng hạn như trường họp ổ rối loạn quá lớn, thầy thuốc muốn tập trung thao tác để giải toả tức thời ở rối loạn nên thường bị quá ngưỡng. Khi gặp những trường họp ổ rối loạn quá lớn này, thầy thuốc cần xác định rằng mặc dù còn rối loạn lớn, nhưng khi trọng điểm đã ẩm ướt (đến ngưỡng) thì phải ngừng thao tác để tránh phản ứng ngược lại của cơ thể người bệnh.
Cơ thể có khả năng tự điều chỉnh để giải toả ổ bệnh và chỉ tiếp thu đến mức nhất định t rong từng lần điều trị. Ngưỡng thao tác này có thể rất khác nhau, có lần cơ thể bệnh nhân tiếp nhận thao tác được 30 phút nhưng có lần chỉ 2 phút đã đến ngưỡng.
b/ Thời gian của quá trình điều trị
Trong phần A của nguyên tắc định lượng đã trình bày về thời gian cho một lần điều trị, phần B này là quy định về thời gian cho cả quá trình điều trị của bệnh nhân.
Đặc điểm và hình thái của trọng điểm bao giờ cũng biểu hiện trên lớp cơ đệm bị xơ co, tạo nên sự dính cứng giữa các khe đốt, làm méo ống sống, chèn ép vào dây thần kinh gai sống (cần tránh hiểu lầm là sự dính cứng đĩa đệm giữa các thân đốt sống). Có trường họp chỉ tác động một lần thì các đốt sống đã chuyển động. Có trường họp phải tác động nhiều lần thì các ðốt sống bị dính cứng mới chuyển ðộng.
* Sự chuyển động của các đốt sống bị dính cứng là cơ sở để kết thúc thời gian của quá trình điều trị,
Khi tác động bằng các thủ thuật thuộc phương thức sóng mà đốt sống đã chuyển động thì phải ngừng điều trị nhưng khi tác động bằng thủ thuật đẩy thuộc phương thức nén mà đốt sống đã chuyển động thì phải tiếp tục áp dụng các thủ thuật thuộc phương thức sóng để tiếp tục điều trị cho đến khi đốt sống trở lại trạng thái bình thường thì mới hoàn thành quá trình điều trị.
Chú ý:
1/ Khi điều trị mà các khe đốt của trọng điểm còn dính cứng là chưa giải toả được ổ bệnh, cần tiếp tục điều trị mặc dầu triệu chứng cơ năng đã hết. Lúc này nếu ngừng điều trị thì bệnh có khả năng tái phát.
2/ Khi các khe đốt của trọng điểm bị dính cứng đã chuyển động bình thường mặc dù các triệu chứng cơ năng chưa hết thì thôi điều trị vì một thời gian sau các triệu chứng cơ năng cũng dần dần tan biết do khả năng tự điều chỉnh của cơ thể.
3/ Khi các khe đốt của trọng điểm động, đốt sống đã trở lại trạng thái bình thường mà vẫn tiếp tục điều trị thì sự dính cứng sẽ trở lại, các triệu
chứng cơ năng có lúc lại xuất hiện, bệnh sẽ dây dưa không dứt hẳn.
IV. NGUYÊN TẢC ĐIÈU NHIỆT
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định sự biến đổi nhiệt độ da trên cơ thể người bệnh là cơ sở để khám bệnh, chữa bệnh và phòng bệnh. Do đó việc điều hoà nhiệt độ da trên cơ thê người bệnh được quy định thành một nguyên tắc trong khi thăm dò, tiên lượng và theo dõi sự tiến triển của bệnh.
Sau đây là một số đặc điểm về điều nhiệt trên cơ thể người:
1/ Các vùng trên cơ thể người bệnh có nhiệt độ da thay đổi quá cao hay quá thấp đều biến chuyển chỉ trong 20 giây khi thầy thuốc áp dụng thủ thuật thăm dò hoặc tác động chữa bệnh tại trọng điểm.
2/ Nhiệt độ da thay đổi thuận chiều nghĩa là nếu vùng đó có nhiệt độ quá cao sẽ giảm xuống, quá thấp thì sẽ nóng lên. Sự thay đổi này có thế nhận biết qua cảm giác bàn tay của thầy thuốc hoặc dùng máy đo nhiệt độ da.
3/ Nếu gặp trường hợp thao tác mà nhiệt độ da không thay đổi thì có thể do một trong những nguyên nhân sau:
a/ Tác động chưa đúng trọng điểm.
b/ Thao tác chưa đúng thủ thuật
c/ Chưa tuân thủ đúng các nguyên tắc đã quy định
d/ Do cơ thể người bệnh vì một nguyên nhân nào đó không còn thích nghi được với tác động cột sống nữa (có thể quá suy nhược không còn khả năng tự điều chỉnh hay bị nhiễm độc...)
Vì vậy, trong khi thao tác trị bệnh, người thầy thuốc phải luôn luôn thăm dò nhiệt độ tại vùng tương ứng và tự kiểm tra thao tác trị bệnh
Chú ý: Từ những đặc điểm trên Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định: Khi tác động mà không điều hoà được nhiệt độ thì tuyệt đối không được thao tác nữa.
4/ Trong quá trình điều trị, nhiệt độ da của vùng quá cao hoặc quá thấp, đều tiến triển theo chiều thuận trong cả quá trình điều trị, ngày một tốt lên. Nhưng cũng có trường họp nhiệt độ chỉ thay đổi ngay khi thao tác hoặc tác dụng chỉ kéo dài thêm một vài tiếng đồng hồ. Những trường họp này có thể do:
a/ Người bệnh chưa nhận được một liều lượng tác động thích hợp, có thể thời gian còn quá ít hoặc cũng có thể do thủ thuật thiếu chính xác, chưa đúng với quy định của phương pháp.
b/ Cũng có trường hợp nhiệt độ thay đổi thuận chiều nhưng chưa trở lại bình thường, dừng lại ở trạng thái bệnh lý trong một thời gian dài. Trường hợp này phần lớn do có điểm đối động ngoài phạm vi cột sống có liên quan tới trọng điểm chưa được giải toả.
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào đặc điểm trên đây mà đề ra căn cứ chủ yếu để theo dõi sự tiến triển của bệnh (sự thuyên giảm bệnh) là sự thay đổi của nhiệt độ da, con các triệu chứng cơ năng chỉ là phối họp đánh giá mà thôi.
B- CÁC PHƯƠNG THỨC TRỊ BỆNH
Phương thức là những cách thức, biện pháp để giải toả trọng điểm, lập lại sự cân bằng của cột sống. Các phương thức trị bệnh gồm có:
1/ Phương thức Nén
2/ Phương thức Sóng
3/ Phương thửc đơn chỉnh và song chỉnh
4/ Phương thức Vi chỉnh
I. PHƯƠNG THỨC NÉN
Nén là một phương thức trị bệnh gồm nhiều hình thức khác nhau. Mục đích của phương thức là làm cho các đốt sống bị dính cứng chuyển động được theo yêu cầu của thầy thuốc và chỉ áp dụng phương thức này đối với các đốt sống bị dính cứng.
Phương thức nén gồm nhiều tư thế tạo cho cột sống người bệnh yên tĩnh để tác động có hiệu quả.
Các phương thức nén gồm:
1. Phương thức Nén kéo 2. Phương thức Nén nâng
3. Phương thức Nén vít 4. Phương thức Nén tinh
Mỗi phương thức Nén nhằm giải quyết một yêu cầu riêng theo vị trí khu trú của trọng điểm tại các khu vực trên cột sống.
Phương thức nếu không có giá trị triệt đế trong việc giải toả hình thái trọng điểm để trị bệnh. Vì phương thức Nén chỉ mới giải toả được các hình thái của các đốt sống bị dính cứng mà không có khả năng giải toả được các hình thức của lớp cơ đệm. Do đó sau khi đã áp dụng phương thức Nén lại phải triệt để và khi đó bệnh mới khỏi hẳn.
II. PHƯƠNG THỨC SÓNG
Phương thức sóng là một phương thức trị bệnh nhằm mục đích giải toả lớp cơ bệnh lý tại trọng điểm ở trên đầu gai sống, ở khe đốt và cạnh đốt sống bằng các thủ thuật thích hợp nhằm tạo cho trọng điểm có một cảm giác đau với khoảng cách đều đặn tạo thành sóng cảm giác giúp cơ thể tự điều chỉnh, tự lập lại cân bằng. Tuỳ theo hình thái của trọng điểm và vị trí của trọng điểm ở các vùng khác nhau mà có các tư thế điều trị thích hợp.
III. PHƯƠNG THỨC ĐƠN CHỈNH VÀ SONG CHỈNH
Định nghĩa :
- Phương thức đơn chỉnh là một phương thức trị bệnh trong đó áp dụng thủ thưật bằng một tay, tác động tại trọng điểm ở thể hẹp
- Phương thức song chỉnh là một phương thức trị bệnh trong đó áp dụng thủ thuật bằng hai tay cùng một lúc, một tay tác động tại trọng điểm, một tay tác động tại điểm đối động tức là điểm liên quan tương ứng với trọng điểm khi trọng điểm ở thể rộng hoặc thể lớn
Trong trường hợp có điểm đối động mà chỉ áp dụng phương thức đơn chỉnh thì kết quả điều trị sẽ rất hạn chế và sẽ có những biểu hiện sau:
1/ Tác động lâu tại trọng điểm mà chưa giải toả được, gây cho trọng điểm bị sưng, dầy cồm.
2/ Các triệu chứng chủ quan của người bệnh có đỡ nhưng không khỏi hẳn, nếu ngưng chữa lại tái phát.
3/ Thời gian điều trị kéo dài, bệnh tật dây dưa.
IV. PHƯƠNG THỨC VI CHỈNH
Vi chỉnh là một phương thức trị bệnh dùng thủ thuật nghiêng đầu ngón tay, dùng một phần của đầu ngón tay tác động tại một điểm trên đầu gai sống. Trên đầu gai sống có các vị trí, phía trên, ở giữa, phía dưới đầu gai. Trọng tâm có thể ở phía trên, ở giữa hay phía dưới đầu gai, có thể ở bên trái hay bên phải hoặc chính giữa đầu gai sống
Vi chỉnh chỉ áp dụng khi trọng điểm ở thể hẹp hoặc khi điều trị cho người bệnh các triệu chứng cơ năng đã hết nhưng ổ rối loại trên đối sống chưa hết (lớp cơ bệnh lý chưa hểt). Vì nếu không điều trị tiếp bằng Vi chỉnh thì một thời gian sau bệnh dễ tái phát lại.
Khi áp dụng phương thức Vi chỉnh cần lưu ý:
- Chỉ dùng lực tối thiểu của một ngón tay, cong ngón tay lên
- Tác động theo hướng trục từ ngoài vào trong
- Tốc độ mau tối đa như khi áp dụng thủ thuật Rung
- Cảm giác của người bệnh: Đau như ngứa, dễ chịu
- Điều nhiệt: vẫn theo quy định chung
- Thời gian áp dụng Vi chỉnh: vẫn theo quy định về ngưỡng tác dụng
TÓM LẠI
- Phương thức Vi chỉnh là một phương thức trị bệnh chỉ dùng một phần của đầu ngón tay tác động lên trọng điểm ở thể hẹp
- Phương thức Vi chỉnh cổ tác dụng chữa dứt bệnh cho người bệnh
- Phương thức Vi chỉnh có tác dụng tốt để phục hồi cột sống bị mất đường cong sinh lý hoặc các đốt sống bị sole phải, áp dụng phương thức chuyển tư thế để xác định trọng điểm.
- Ngoài những quy định chung khi áp dụng phương thức Vi chỉnh còn có những điểm cần phải chú ý như đã nêu ở trên.

C. CÁC THỦ THUẬT TRỊ BỆNH
Các thủ thuật trị bệnh gồm có: Thủ thuật Đẩy, thủ thuật Xoay, Thủ thuật Bật, Thủ thuật Rung, Thủ thuật Bỉ, Thủ thuật Lách,
I. THỦ THUẬT ĐẢY
a. Khái niệm và mục đích: Thủ thuật Đẩy là một thủ thuật trị bệnh dùng kết hợp phương thức nén với các đốt sống lồi, lồi lệch, lệch bị dính cứng cùng với thủ thuật xoay và Bỉ trong phương thức sóng để giải toả lớp cơ cho đốt sống bị dính cứng chuyển động được theo yêu cầu của thầy thuốc.
b. Hình thửc: Theo nguyên tắc định lực cho 5 vùng đã quy định thao tác theo vị trí khu trú của trọng điểm mà ứng dụng lực của một ngón tay hay 2 ngón tay cái hay của dậm bàn tay đặt tĩnh tại trọng điểm đế thao tác với lực tác động từ nhẹ đến nặng. Dù cho đốt sống bị dính cứng nhiều cũng không được dùng quá lực đã quy định.
c. Thao tác: Khi thao tác chú ý đẩy từ ngoài vào trong theo hướng trục. Tuỳ theo vị trí khu trú của trọng điểm mà chọn tư thế thích hợp cho bệnh nhân các tư thế nàyđều tạo cho gân cơ của người bệnh buông trùng gân cơ thích hợp cho việc tiếp nhận lực thao tác .
d. Thủ thuật: ứng dụng thủ thuật đẩy trong phương thức nén phối hợp với thủ thuật xoay, bỉ, rung, lách trong phương thức sóng để tạo cho một trọng điểm có một sóng cảm giác thích hợp nhất để cơ thể tự điều chỉnh.
e. Giới hạn: Không được dùng thủ thuật để đẩy cho vùng cổ (C1 đến C7) và vùng cụt mà chỉ được phối hợp với thủ thuật xoay và bỉ với một lực thích hợp.
II. THỦ THUẬT XOAY
a. Khái niệm và mục đích: Thủ thuật xoay là một trong những thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng được quy định ứng dụng cụ thể với những loại trọng điểm có hình thức đốt sống lồi, lồi lệch, lệch và hình thái lớp cơ co dầy, co mỏng, mềm dầy, mềm mỏng.
Mục đích của thủ thuật xoay: Là dùng lực tác động tạo cho người bệnh có một cảm giác đau thích họp tại trọng điểm nghĩa là lúc đầu đau nhiều rồi đau vừa cuối cùng hết đau để cơ thể người bệnh tự điều chỉnh, phục hồi lại sự cân bằng của cột sống để khỏi bệnh.
b. Hình thức: Dùng phần mềm của ngón tay cái, ngón tay trỏ hay ngón giữa đặt tĩnh tai trọng điểm để thao tác bằng một lực thích họp và theo hướng như sau:
1/ Xoay vòng tròn ở trên lớp cơ bệnh lý theo chiều kim đồng hồ với những trường họp trọng điểm khu trú ở phần dưới đầu gai sống lệch trái với phần vai sống lệch trái.
2/ Xoay vòng tròn trên lớp cơ bệnh lý ngược với chiều kim đồng hồ đối với những trường họp trọng điểm khu trú ở phần dưới đầu gai sống lệch trái với phần trên đầu gai lệch phải.
3/ Xoay vòng tròn trên lớp cơ bệnh lý không quy định chiều xoay đối với những trường họp trọng điểm khu trú ở đầu gai sống không phân biệt phần trên hay phần dưới.
c. Thao tác
1/ Thao tác ở một diện hẹp đối với những trọng điểm ở thể hẹp
2/ Thao tác ở một diện rộng đối với những trọng điểm ở diện rộng hoặc lớn
3/ Thao tác dùng một lực nhẹ đối với những trọng điểm khu trú ở lớp ngoài.
4/ Thao tác với một lực trung bình đối với những trọng điểm khu trú ở lớp cơ giữa .
5/ Thao tác với một lực nặng đối với những điểm khu trú ở lớp cơ trong
d. Thủ thuât
Khi dùng thủ thuật xoay thao tác trị bệnh cần phối họp với thủ thuật đẩy với lực từ tối thiểu đến tối đa theo quy định của nguyên tắc định lực và phối hợp với thủ thuật lách khi trọng điểm đã thay đổi.
e. Giới hạn
Thủ thuật xoay được áp dụng rộng rãi với tất cả khu vực khác nhau ở trên cột sống từ vùng cổ đến vùng xương cụt.
Thủ thuật xoay không có giá trị đối với những trường họp hình thái của trọng điểm di động như các loại xơ và sợi di động, loại không di động, dính cứng (phải đắp cua đồng)
g. Chú ý: Thủ thuật xoay là một thủ thuật chủ yếu để giải toả lớp cơ bệnh lý có hình thái co mềm, không di động
III.THỦ THUẬT BẬT
a. Khái niêm và muc đích: Thủ thuât bât là thủ thuât tri bênh theo phương thức sóng áp dụng, với những loại trọng điểm có hình thái lớp cơ bệnh lý xơ và sợi
- Mục đích của thủ thuật bật là dùng thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh một cảm giác đau nẩy người và đột ngột đối với những trường họp lớp cơ bệnh lý có hình thái sợi tròn, sợi dẹt.
b. Hình thức:
Hình thức thủ thuật bật là dùng phần mềm ở đầu ngón tay cái, ngón trỏ, ngón giữa hay cũng có thể là dùng nhiều ngón bật trượt trên sợi cơ bệnh lý bằng một lực.
c. Thao tác:
1/ Với những trường họp sợi bệnh lý thuộc thể và loại sợi tròn và dẹt, dù sợi bệnh lý nằm theo hướng dọc, ngang hay chéo thì người thầy thuốc dùng một ngón tay hoặc nhiều ngón tay bật trượt nhanh trên sợi cơ bệnh lý theo hướng cắt ngang.
2/ Trong trường hợp chỉ bật trượt nhẹ ta dùng một ngón tay bật theo hướng cắt ngang trên sợi cơ bệnh lý thể và loại sợi tròn hoặc dẹt.
Thủ thuật: Khi dùng thủ thuật bật cần phải phối họp với thủ thuật đẩy theo ắc quy định lực từ tối thiểu đến tối đa.
d. Giới hạn
1. Thủ thuật bật được áp dụng rộng rãi đối với các trọng điểm khu trú ở trên hệ cột sống từ vùng cổ đến xương cụt và phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc định lực.
2. Thủ thuật bật chỉ có giá trị với những thể loại xơ và sợi, không có giá trị đối với hình thái co cứng, co mềm.
IV.THỦ THUẬT RUNG
a. Khái niệm và mục đích: Thủ thuật rung là một thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng, ứng dụng cụ thể với những trọng điểm có hình thái thuộc loại mềm, mềm dày, mềm mỏng, co dầy, co mỏng.
Mục đích của thủ thuật này là dùng thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có một cảm giác thoải mái, dễ chịu.
b. Hình thức: Hình thức của thủ thuật rung là dùng phần mềm ở đầu\
ngón cái hoặc ngón giữa đặt tĩnh tại trọng điểm, bằng một lực thích
hợp rung trên bàn tay lắc qua, lắc lại liên tục, tạo cho ngọn tay thủ thuật có sự rung chuyển nhẹ nhàng tại đầu ngón tay đặt trên trọng điểm.
c. Thao tác:
1/ Rung mạnh tức là động tác bàn tay lắc ngang rộng, áp dụng đối với những trường hợp trọng điểm thuộc loại mềm mỏng và co mỏng.
2/ Rung nhẹ tức là động tác bàn tay lắc ngang hẹp đối với những trường họp thuộc loại mềm dầy và co dầy.
d. Thủ thuật: Khi thao tác trị bệnh bằng thủ thuật rung, bằng lực nhẹ hay lực mạnh cũng cần phải phối hợp với thủ thuật đẩy tức là vừa đẩy, vừa rung.
Thủ thuật rung được phối hợp thủ thuật lách khi trọng điểm đã thay đối mục đích để xác định trọng điểm mới.
Thủ thuật rung còn phối họp với thủ thuật bỉ và thủ thuật đẩy trong khi thao tác giải toả trọng điểm ở lớp cơ trong.
e. Giới hạn: Thủ thuật rung chỉ có giá trị để giải toả các hình thái trọng điểm loại mềm mỏng, mềm dầy, và co mỏng, co dầy.
Thủ thuật rung không có giá trị đối với loại cứng, xơ và sợi
Thủ thuật rung thích họp với những trường họp suy nhược chẳng hạn như suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể.
g. Tóm tắt.
Thủ thuật rung là một thủ thuật tạo cho người bệnh có một cảm giác dễ chịu, êm ái và ngọt ngào, được coi là một thủ thuật bổ.
Khi thao tác phải chọn tư thế thích họp với người bệnh và thầy thuốc, trọng điểm thuộc loại mềm mong.
V. THỦ THUẬT BỈ
a. Khái niệm và mục đích:Thủ thuật bỉ là một những thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng, ứng dụng cụ thể trong những trường hợp trọng điểm cư trú ở lớp cơ trong.
Mục đích của thủ thuật bỉ là khi thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có một cảm giác đau thích họp tại trọng điểm cư trú ở lớp cơ trong. Cảm giác đau thích họp này có thể nhận biết bằng hiện tượng uốn cong và vặn cột sống.
b. Hình thức và thao tác: Hình thức của thủ thuật bỉ là dùng phần mềm ở đầu ngón tay giữa đặt tại trọng điểm để thao tác ấn sâu vào lớp cơ trong sát với gai sống, ấn cho lớp cơ bệnh lý miết vào gai sống và lăn ngửa ngón tay, vừa lăn vừa miêt vòng tròn. Lúc đầu đưa lực từ ngoài hướng trục và tiếp theo đưa lực từ trong bỉ ra ngoài.
Chú ý:
- Thủ thuật bỉ có thể phối hợp với thủ thuật đẩy, thủ thuật rung, thủ thuật lách.
- Thủ thuật bỉ chí áp dụng với những trường hợp đốt sống lõm hoặc lệch lõm và lớp cơ bệnh lý Co, Mem, Dày, Mỏng, không áp dụng với những trường hợp Xơ, Sợi.
VI. THỦ THUẬT LÁCH
Thủ thuật lách không có hình thức riêng mà khi thao tác trị bệnh bằng các thủ thuật khác thuộc phương thức sóng, thầy thuốc cần phải chú ý lần đầu ngón tay lách rộng ra các bờ cao của lớp cơ bệnh lý để theo dõi hình thái của trọng điểm trong khi thao tác trị bệnh để kịp thời xác định trọng điểm mới.
Trọng điểm bao giờ cũng khu trú ở một trọng điểm rất nhỏ. Khi điểm nhỏ này đã tan đi (đã được giải toả) thì xung quanh hình thái một bờ cao, tại đó có điểm co nhất và cảm giác đau nhất. Điểm đau mới này được gọi là trọng điểm mới.

Hết quyển 1 .
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !
thuylt Đã gửi: 10/07/2017 lúc 09:49:35(UTC)
 
PHẦN III
CÁC NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG THỨC VÀ THỦ THUẬT CHẨN BỆNH

A. CÁC NGUYỄN TẮC CHẨN BÊNH
Nguyên tắc là những quy định của phương pháp bắt buộc mọi người thầy thuốc của trường phái phải tuân theo. Nó là kim chỉ nam giúp cho người thầy thuốc xác định chính xác trọng điểm và giải toả được trọng điểm.
I - NGUYÊN TẮC ĐỐI XỨNG.
Nguyên tắc đối xứng dựa trên sự phân bố đối xứng của hệ cột sống và của cơ thể để so sánh sự đối xứng, đối lập và thống nhất ở trên hệ cột sống và giữa hệ cột sống với ngoại vi bằng các đặc trưng sinh lý và bệnh lý.
1. Đặc trưng sinh lý và bệnh lý:
Cơ xở để khám bệnh, chữa bệnh và phòng bệnh của phương pháp Tác động cột sống Việt Nam là căn cứ vào sự đối lập và thống nhất các đặc trưng ở trên cột sống và ngoại vi sau đây:
Đặc trưng của cột sống:
+ Thống nhất: Cột sống thẳng ngay, khe đốt kín khít.
+ Đối lập: Đốt sống lồi, lõm, lệch lạc, khe đốt thưa rão( hở)
Đặc trưng về gân cơ:
+ Thống nhất: Thư nhuận kể cả lớp cơ đệm cột sống và ngoại vi.
+ Đối lập: Cường - Nhược; Cứng - Mềm; Dầy - Mỏng kể cả trên cột sống và ngoại vi.
Đặc trưng nhiệt độ da:
+ Thống nhất: Bình thường cả cột sống và ngoại vi.
+ Đối lập : Quá cao, quá thấp cả cột sống và ngoại vi.
Đặc trưng về cảm giác:
+ Thống nhất: Không xuất hiện khác thường về cảm giác.
+ Đối lập: Cảm giác đau, tê khi có tác động khách quan cả cột sống và ngoại vi.
2. Cơ sở so sánh theo nguyên tắc đối xứng:
Khi khám bệnh và chữa bệnh theo phương pháp Tác động cột sống Việt Nam trước tiên phải căn cứ vào nguyên tắc đối xứng.
2.1. So sánh khu vực đối xứng giữa bên phải và bên trái của hệ cột sống:
- Hai bên của vùng đầu (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ thang (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ vai (đối xứng) F và T
- Hai chi trên (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ lưng (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ thắt lưng (đối xứng) F và T
- Hai bên hạ sườn (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ ngực (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ mông (đối xứng) F và T
- Hai bên cơ vùng ngực trên và dưới (đối xứng) F và T
- Hai bên chi dưới (đối xứng) F và T
2.2. Sự đối lập của các đặc trưng bệnh lý: (Sự đối lập trên hệ cột sống chỉ xảy ra ở hệ cột sống bệnh lý hay hệ cột sống có hiện tượng bệnh lý)
Sự đối lập trên cột sống : Đốt sống lệch đối lập với đốt sống khuyết, đốt sống lồi đối lập với đốt sống lõm.
Hai hiện tượng đối lập khu trú trên khu vực đối xứng của đốt sống là:
- Bên phải đốt sống có hiện tượng lệch thì bên trái đốt sống có hiện tượng khuyết.
- Phía trên đốt sống có hiện tượng lồi thì phía dưới đốt sống có hiện tượng lõm hoặc ngược lại.
Sự đối lập trên hệ gân cơ : Hai hiện tượng bệnh lý đối lập trên hệ cột sống và ngoại vi là :
- Gân cơ cường đối lập với gân cơ nhược.
- Gân cơ dầy đối lập với gân cơ mỏng.
- Gân cơ cứng đối lập với gân cơ mềm.
- Gân cơ teo đối lập với gân cơ xơ.
Sự đối lập về cảm giác : Hai mặt đối lập về bệnh lý cảm giác đau nhiều với cảm giác đau tê, cảm giác đau ít với cảm giác giảm. Hai hiện tượng đối lập này đối xứng ở hệ cột sống và ngoại vi như sau:
- Bên phải đốt sống có cảm giác đau nhiều thì bên trái đốt sống có cảm giác tê ( do tác động khách quan )
- Bên trên có cảm giác đau nhiều thì bên dưới có cảm giác tê .
- Bên phải đốt sống có cảm giác đau ít thì bên trái đốt sống có cảm giác giảm
- Bên trên đốt sống có cảm giác đau ít thì bên dưới đốt sống có cảm giác giảm.
Ở ngoại vi : tức là cảm giác đau tê ở ngoài phạm vi cột sống như vùng đầu, vùng cổ, vùng tai, lưng, tay, chân .v.v. cũng tuân theo quy luật như ở hệ cột sống cụ thể là:
- Vùng đầu bên phải có cảm giác đau tăng thì vùng đầu bên trái đau tê.
- Vùng ìưng bên trái đau ít thì vùng lưng bên phải có cảm giác giảm .v.v.
• Sự đối lập về nhiệt độ da:
Trên cột sống : Bên phải đốt sống có nhiệt độ da cao thì bên trái có nhiệt độ da thấp; bên trên đốt sống có nhiệt độ da cao thì bên dưới có nhiệt độ da thấp .
Ở ngoại vi : Nhiệt độ da cao ở ngoại vi cột sống như vùng đầu, vùng cổ, vùng vai .v.v. biểu hiện như sau :
- Bên phải vùng vai có nhiệt độ da cao thì bên trái vùng vai có nhiệt độ da thấp.
- Vùng dưới của vai có nhiệt độ da thấp thì vùng trên vai có nhiệt độ da cao.
3. ứng dụng nguyên tắc đối xửng trong khám và chữa bệnh:
3.1. ứng dụng trong khám bệnh:
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định rằng trong khám bệnh phải dựa vào nguyên tắc đối xứng, không được bỏ sót một hiện tượng đối lập nào trong các đặc trưng bệnh lý, cụ thể là : Phải xác định được sự mất cân bằng về đốt sống, hệ cơ, nhiệt độ da, về cảm giác, để từ đó xác định chính xác được trọng điểm.
3.2. ứng dụng trong chữa bệnh :
Trong chữa bệnh nguyên tắc đối xứng có vai trò sau :
a/ Theo dõi sự thay đổi chênh lệch của các đặc trưng đối lập gồm cơ cứng với cơ mềm, cơ co với cơ duỗi, cơ xơ với cơ teo, nhiệt độ cao với nhiệt độ thấp, cảm giác đau với cảm giác tê.
b/ Là cơ sở để áp dụng thủ thuật song chỉnh trong thao tác trị bệnh.
Trong khi thao tác trị bệnh thì khu vực gân cơ co sẽ trở thành thư nhuận và khu vực gân cơ duỗi đối xứng sẽ tăng trương lực cơ; Khu vực gân cơ xơ sẽ dần dần hết xơ và khu vực gân cơ teo sẽ dần phục hồi v.v.
Khi trên hệ cột sống có hiện tượng bệnh lý thì chắc chắn ở ngoại vi cũng có hiện tượng bệnh lý đối xứng. Nếu hai điểm rối loạn này được tác động cùng một lúc thì ổ rối loạn trên cột sống chóng được giải toả và ổ rối loạn ngoại vi cũng chóng tan đi.
Chính vì vậy mà nguyên tắc đối xứng là cơ sở của phương pháp song chỉnh trong trị bệnh.
II. NGUYÊN TẤC HƯNG PHẤN VẦ ỨC CHÉ.
Hưng phấn và ức chế là hai mặt cân bằng của hệ cột sống, có thể xuất hiện ở cả một khu vực rộng lớn hoặc chỉ ở một phần nhỏ trên cột sống.
Cơ sở so sánh những hiện tượng hưng phấn và ức chế là các đặc trưng:
- Hưng phấn : thường là ở đốt sống lồi, lệch, lớp cơ đệm cơ co, cứng, cảm giác đau tăng, nhiệt độ da cao.
- Ức chế: thường là ở đốt sống lõm, lớp cơ đệm teo, nhược, cảm giác nhiệt độ da thấp.
Phương pháp Tấc động cột sống Việt Nam chữa bệnh dựa vào nguyên lý ức chế sự phát triển hưng phấn tại điểm hưng phấn, tạo điều kiện cho cơ thể tự điều chỉnh, phục hồi sự cân bằng giữa quá trình hưng phấn và ức chế trên hệ cột sống bằng cách tác động tại khu vực hưng phấn.
Dựa vào nguyên lý trên, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào điểm hưng phấn làm cơ sở cho chẩn đoán, phân loại và xác định trọng điểm.
III. NGUYÊN TẤC ĐỊNH KHU, ĐỊNH ĐIỀM
Cơ sở để xác định bệnh là nhiệt độ trên cột sống. Nhiệt độ cột sống bị biến đổi là một hiện tượng của cơ thể bệnh lý. Một khi cơ quan nội tạng hay một bộ phận nào của cơ thể bị bệnh thì nhiệt độ trên cột sống biếu hiện ở các khu vực tương ứng, nhưng trên cơ thể người bệnh ít gặp trường hợp chỉ có sự biến đổi nhiệt độ của một vùng, mà trên hệ cột sống thường thấy nhiều vùng có biến đổi về nhiệt độ.
Trên hệ cột sống của từng người bệnh cụ thể bao giờ cũng có ổ rối loạn. Rối loạn trên một đốt sống gọi là đơn, rối loạn trên nhiều đốt sống liền nhau gọi là liên.
Nhưng ít có người bệnh chỉ có một ổ rối loạn mà phần lớn người bệnh có nhiều ổ rối loạn trên hệ cột sống gọi là khu vực rối loạn.
Trong các ổ rối loạn đó bao giờ cũng phải có một rối loạn lớn nhất được coi là nguồn gốc của các hiện tượng rối loạn ngưng tụ trên cột sống người bệnh và cũng có thể là gốc bệnh.
Do đó, Định khu là tìm ra khu vực tập trung các ổ rối loạn, trong đó khu vực rối loạn lớn nhất gọi là trọng khu. Định điểm là tìm ra điểm có rối loạn, trong các điểm rối loạn lại tìm ra ổ rối loạn lớn nhất gọi là Trọng điểm.
Xác định được trọng khu, trọng điểm là điều bắt buộc của các thầy thuốc, chuyên gia tác động cột sống Việt Nam. Bởi vì nếu không xác định được trọng khu, trọng điểm mà vẫn chữa thì sẽ không điều trị được và là chữa mò.
Vai trò của trọng khu, trọng điểm
Khi xử lý các ổ rối loạn trên hệ cột sống người bệnh, nếu tác động đúng trọng khu thì chỉ cần xử lý ở một trọng điểm cũng đủ làm cho trọng khu mau thay đổi, các ổ rối loạn khác sẽ tiêu tan (các ổ rối loạn khác sẽ hết rối loạn).
Nếu xử lý không đúng trọng khu và trọng điểm thì triệu chứng bệnh có thể giảm nhẹ nhưng không hết được bệnh, có thể đến một thời gian nào đó bệnh lại tái phát.
Đặc điểm của trọng khu, trọng điểm
- Trọng khu và trọng điểm dễ xê dịch trong khi thao tác.
- Có khi tác động tại một trọng điểm thì trọng khu thay đổi tức thời, nghĩa là nhiệt độ giảm, lớp cơ đỡ co, cảm giác đỡ đau, Lúc này thủ thuật viên cần tìm lại trọng khu mới (tức là điểm tập trung các rối loạn cao nhất lúc đó) và trọng điểm mới để tiếp tục thao tác.
- Có trường hợp mới tác động ngắn, trọng khu chưa thay đổi nhưng trọng điểm thay đổi tức thì, thủ thuật viên phải luôn luôn thăm dò nhiệt độ và kịp thời xác định trọng điểm mới để điều trị và tiếp tục đến khi giải toả được ổ rối loạn.
B. CẮC PHƯƠNG THỨC CHẨN BÊNH
( Phương thức là con đường, là cách thức giúp người chuyên gia của trường phái đi tới được trọng điểm nhanh, chính xác).
I. PHƯƠNG THỨC ĐỘNG HÌNH
Phương thức động hình là một phương thức chẩn bệnh, dùng thủ thuật bật tại điểm đau ở ngoại vi để xác định trọng điểm ở trên cột sống.
Khi ở ngoại vi hệ cột sống có hiện tượng bệnh lý như đau, nhức và nhiệt độ tại chỗ đau nóng hơn bình thường... thì chắc chắn ở trên cột sống sẽ có điểm đối xứng bệnh lý (theo nguyên tắc đối xứng). Xác định được điểm đối xứng bệnh lý này nghĩa là ta đã xác định được trọng điểm. Giải toả xong ổ rối loạn tại trọng điểm trên cột sống thì các hiện tượng bệnh lý ở ngoại vi cũng sẽ hết.
Sóng động hình của cơ cho ta mối liên quan giữa hiện tượng bệnh ở ngoại vi hướng cho cho bệnh nhân nằm sấp xuống. Ví dụ: Một bệnh nhân bị đau gân Asin, trong bệnh đau dây thần kinh hông (thần kinh toạ) ta hướng cho bệnh nhân nằm sấp xuống. Theo dõi cơ lưng bệnh nhân, dùng ngón tay cái bật tại chỗ đau ở gân Asin sẽ có một sóng cơ chạy chéo cơ lưng và dừng lại ở một đốt sống, tại đó là trọng điểm. Giải toả xong chỗ cơ co tạo trọng điểm thì triệu chứng đau ở gân Asin sẽ hết. Phương thức động hình là phương thức áp dụng với những bệnh chứng về chức năng vận động chi dưới.
II. PHƯƠNG THỨC ĐỐI ĐỘNG
Trên một số cơ thể bệnh lý thường gặp trường hợp khổng chỉ có ổ rối loạn trên cột sống mà thường có một số ổ rối loạn, có khi ở gần nhau thành một khu vực, có khi ở cách xa nhau. Dù ở gần hay ở xa nhau nhưng những ổ rối loạn này thường có mối liên quan hữu cơ với nhau. Khu vực có ổ rối loạn nhỏ hơn khu vực trọng khu gọi là khu vực có liên quan với trọng khu, trọng điểm. Khi ta tác động vào trọng điểm và đặt một ngón tay tại khu vực liên quan, khác bên vởi trọng điểm, ta sẽ thấy có một điểm trong khu vực liên quan có máy động dưởi ngón tay chúng ta. Điểm đó là điểm đối động với trọng điểm. Khi đã xác định được điểm đối động, ta đồng thời tác động hai tay, một tay tại trọng điếm và một tay tác động tại điểm đối động. Khi đó ổ rối loạn tại trọng điểm sẽ chóng được giải toả và triệu chứng bệnh sẽ chóng khỏi.
Điểm đối động thường ở khác bên với trọng điểm. Có khi ở gần, có khi ở xa trọng điểm. Điểm đối động chỉ gặp ở đốt sống lồi lệchy đốt sống lệch, không gặp ở đốt sống lồi cân hoặc lõm cân.
III. PHƯƠNG THỨC CO CƠ TƯƠNG ỨNG
Phương thức co cơ tương ứng là một phương thức chẩn bệnh nhằm mục đích xác định hiện tượng cột sống biến đổi liên quan đến chức năng vận động chi trên bị hạn chế biểu hiện bằng hiện tượng co cơ trên cơ thể người bệnh làm cơ sở cho việc xác định trọng điểm.
Khi người bệnh thực hiện một hay nhiều động tác bị hạn chế nghĩa là người bệnh vận động một động tác đến mức tối đa nhưng chưa đạt được mức vận động của một người bình thường thì đã bị đau và không vận động được hơn nữa có nghĩa là một trong những tiết cơ đó liên quan đến đốt sống bị biến đổi. Xác định được đốt sống biến đổi này là ta đã xác định được trọng điểm.
Một động tác vận động bị hạn chế có thể liên quan tới một, hai hay nhiều đốt sống bị biến đổi.
Phương thức co cơ tương ứng cho ta thấy mối liên quan giữa chức năng vận động hạn chế với sự biến đổi cột sống . Xác định được những đốt sống biến đổi này là ta đã xác định được trọng điểm. Giải toả được trọng điểm và những điểm liên quan với trọng điểm thì chức năng vận động hạn chế sẽ trở lại bình thường.
Ví du : Một bệnh nhân giơ tay lên bị hạn chế, cố giơ lên một chút nữa thì rất đau. Vận động theo hướng giơ tay lên cũng đau.
Cách xác định đốt sống trong điếm:
Tư thế : bệnh nhân ngồi trên ghế, để hở lưng, hướng ra phía có đủ ánh sáng để quan sát
Vận động: Bảo bệnh nhân giơ cánh tay lên đến mức tối đa của hạn chế và giơ lên hạ xuống liên tục, trong lúc đó người thầy thuốc quan sát bằng mắt nhìn từ phía sau lưng sẽ thấy sóng cơ nổi cộm lên và bám tận ở trên đốt sống bị biến đổi tương ứng. Đốt sống này là đốt sống trọng điểm.
IV. PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TƯ THẾ
Phương thức chuyển tư thế là một phương thức chẩn bệnh, nhằm mục đích xác định sự vận động của hệ cột sống bị hạn chế và sự biến đổi của lớp cơ đệm làm cơ sở để phận biệt Loại và Thể của trọng điểm; Nghĩa là xác định được trọng điểm và xác định được Loại và Thể của trọng điểm.
Căn cứ vào hình thái sinh lý của hệ cột sống, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam chia thành 2 vùng để áp dụng phương thức chuyển tư thế đó là vùng cổ và vùng thân mình.
Xác định đốt sống vùng cổ biến đổi:
- Người bệnh ngồi ngay, tav buông thõng. Bảo người bệnh cúi gập đầu
nếu cằm sát vào tới . ngực là bình thường. Nếu không sát được vào ngực là có đốt sống bị hướng ra phía trước (lõm về phía trước).
- Xác định đốt sống lõm đó và lớp cơ đệm bị xơ co bằng thủ thuật vuốt và vê. Xác định sự xơ co lan toả của lớp cơ đệm cũng bằng thủ thuật vuốt và vê (Xem thủ thuật vuốt và vê).
- Người bệnh ngồi ngay, tay buông thõng : Bảo bệnh nhân từ từ ngửa cổ, nếu nhìn được lên trần nhà là bình thường, nếu không được là có đốt sống cổ lồi ra phía sau. Xác định đốt sống lồi đó và sự xơ co lan toả của lớp cơ đệm bằng thủ thuật vuốt và vê.
- Người bệnh ngồi ngay, tay buông thõng: Bệnh nhân từ từ nghiêng đầu sang trái, nếu được một góc 45° trở lên là bình thường, nếu không được như vậy là đốt sống bị lệch sang trái. Ngược lại nếu nghiêng sang phải hạn chế là đốt sống bị lệch sang phải.
- Xác định đốt sống lệch trái, lệch phải ở trên và lớp cơ đệm bị xơ co lan toả đều bằng thủ thuật vuốt và vê.
- Xác định đốt sống vùng lưng biến đổi gây nên vận động thân mình bị hạn chế:
- Khi các đốt sống vùng lưng có 1 hay liên đốt biến đổi không bình thường sẽ gây nên sự vận động của thân mình bị hạn chế như ngồi cúi cong lưng bị hạn chế do một hay liên đốt lõm về phía trước; ngồi ngửa bụng ra phía trước bị hạn chế do một hay liên đốt lồi ra phía sau; nghiêng phải hay nghiêng trái bị hạn chế là do một hay liên đốt bị lệch sang phải hay lệch sang trái.
- Xác định những đốt sống biến đổi đó và lớp cơ đệm xơ co lan toả bằng thủ thuật vuốt và vê.
C. CẮC THỦ THUẬT CHẨN BÊNH.
( Là các yêu cầu về mặt kỹ thuật đối với những chuyên gia của trường phái để xác định trọng điểm).
I. THỦ THUẬT ÁP.
Trong phương pháp Tác động cột sống Việt Nam, thủ thuật áp là thủ thuật chẩn bệnh được tiến hành trước tiên nhằm mục đích phát hiện sự biến đổi về nhiệt độ da (Cao hoặc thấp hơn bình thường) ở trên hệ cột sống và ngoài phạm vi cột sống để làm cơ sở chẩn đoán, tiên lượng và theo dõi sự tiến triển của bệnh trong điều trị.
Hình thức của thủ thuật áp là dùng lòng bàn tay (hoặc mu bàn tay) đặt sát với lớp da của những vùng đã quy định hoặc những vùng có yêu cầu trên người bệnh, để xác định đầy đủ, chính xác sự biến đổi về nhiệt độ da của người bệnh.
Các hình thửc của thủ thuật áp gồm có: áp định khu và áp không định khu.
1/ Áp không định khu là hình thức dùng lòng bàn tay đặt nhẹ sát tới lớp da rồi xê dịch liên tục từ nhanh đến chậm tại khu vực có yêu cầu độ vài ba lần là có thể xác định được vùng nhiệt độ đó cao hay thấp hơn bình thường. Hình thức này áp dụng với những trường họp không định khu.

2/ Áp định khu là đặt nhẹ bàn tay sát tới lớp da không quá 5 giây, nhấc bổng tay lên khoảng 5 giây, rồi lại đặt xuống và nhấc lên như thế 5 đến 7 lần, cơ thể đủ để xác định được vùng đó có nhiệt độ cao hay thấp hơn nhiệt độ bình thường . Hình thức này áp dụng với những trường họp có định khu.
Trước khi thao tác cần chuẩn bị về tư thế và thủ thuật như sau :
1/ Tuỳ thuộc vào những hạn chế của mỗi người bệnh mà ứng dụng các tư thế đứng, ngồi hay nằm cho thích hợp với việc khám bệnh.
2/ Trước khi thao tác người kỹ thuật viên cần chuẩn bị để cho bàn tay và ngón tay thêm nhanh nhạy với cảm giác nóng lạnh bằng cách xoa hai bàn tay với nhau liên tục, khi bàn tay đã mềm mại và nóng ấm (đặc biệt là về mùa đông), mới tiến hành thao tác.
Trình tư thao tác đươc tiến hành như sau:
1/ Áp dụng hình thức áp định khu để xác định nhiệt độ da địa phương tức là phát hiện sự biến đổi về nhiệt độ da ở trên những khu vực mà người bệnh có cảm giác đau hoặc cảm giác giảm như đầu, mình, chân tay .v.v.
2/ Áp dụng hình thức áp không định khu để xác định nhiệt độ da, cột sống từ đó xác định được trọng khu và tiếp đó kết họp với thủ thuật vuốt để xác định trọng điểm.
Áp dụng hình thức áp định khu đề xác định sự biến đổi nhiệt độ da vùng tương ứng với nội tạng (đã trình bày trong phần đặc trưng về nhiệt độ da ).
II. THỦ THUẬT VUỐT
Thủ thuật vuốt là thủ thuật khám bệnh tiến hành sau khi đã xác định bằng thủ thuật áp. Mục đích của thủ thuật vuốt là phát hiện những hiện tượng bệnh lý khu trú trên hệ cột sống như: đốt sống lồi, lõm, lệch (đơn hoặc liên ); lớp cơ co, cứng, mềm, xơ, sợi, teo và còn phát hiện các cơ bệnh lý tại các vùng có liên quan với trọng khu để xác định điểm đối động.
Thủ thuật vuốt dùng đầu ngón tay hay cả thân ngón tay của các ngón trỏ, giữa, ngón đeo nhẫn. Có thể dùng cả ba ngón tay và lòng bàn tay tuỳ theo yêu cầu mà bệnh thao tác theo hướng kéo hất ngón tay vào lòng bàn tay, tuỳ thuộc mà thao tác nhanh hay chậm, thời gian dài hay ngắn, nông hay sâu.
Thủ thuật vuốt có 4 hình thửc:
1/ Vuốt dọc: tức là vuốt dọc theo hệ cột sống từ trên xuống dưới để phát hiện lớp cơ bệnh lý ngang cơ lưng.
2/ Vuốt ngang: tức là vuốt từ cột sống kéo ngang ra co lưng để phát hiện lớp cơ bệnh lý dọc theo hệ cột sống.
3/ Vuốt chéo ra : là vuốt chéo chếch xuống từ cột sống kéo ra ngoài cơ lưng để phát hiện những sợi cơ bệnh lý từ cột sống kéo ra ngoài cơ lưng để phát hiện những cơ bệnh lý từ cột sống chếch hoặc chéo ngược lên phía trên.
4/ vuốt chéo vào: tức là đặt tay ở ngoài cơ lưng kéo chếch xuống từ cơ lưng vào cột sống để phát hiện những sợi cơ cột sống chéo chếch xuống dưới.
Chú ý : Khi cần phát hiện hình thái bệnh lý ở lớp cơ trong thì ta phối hợp với vuốt ngắn ở lớp trong.
Trình tư của thủ thuât vuốt
1/ Vuốt trượt : tức là dùng đầu ngón tay vuốt phẩy trượt trên lớp cơ bệnh lý trong một diện hẹp để xác định hình thái khác thường của lớp ngoài ở khu vực đó.
2/ Vuốt chìm : tức là đặt tĩnh ngón tay (không nhấc ngón tay lên khỏi mặt da ) thao tác trên một diện rộng để phát hiện vùng cơ bệnh lý.
3/ Vuốt dài: tức là vuốt dọc cột sống và cơ lưng để có khái niệm ban đầu về các khu vực có hiện tượng bệnh lý (có thể vuốt nhanh, chậm, nông, sâu tuỳ ý).
4/ Vuốt ngắn : tức là vuốt trên khu vực bệnh lý (vùng trọng khu ). có thể ngắn nhất là chỉ trong phạm vi một đốt sống (có thể vuốt nhanh, chậm, nông, sâu tuỳ ý ).
5/ Vuốt nông : Để phát hiện hình thái bệnh lý khu trú ở lớp ngoài (có thể vuốt nhanh, chậm, tuỳ ý).
6/ Vuốt sâu : chủ yếu để phát hiện hình thái bệnh lý ở lớp cơ trong
III. THỦ THUẬT ẤN
Thủ thuật ấn là thủ thuật khám bệnh được tiến hành trên lớp cơ bệnh lý khu trú ở trên hệ cột sống ( không có ngoại vi) sau khi ðã được xác định bằng thủ thuật vuốt.
Mục đích của thủ thuật ấn là :
- Phát hiện hình thái lớp cơ bệnh lý là di động hoặc không di động, dầy hoặc mỏng, co cứng hoặc mềm.
- Phát hiện cảm giác đau tăng hay giảm.
- Phát hiện vị trí khu trú của lớp cơ bệnh lý ở ngoài, lớp giữa hay lớp trong.
Cách tiến hành : Dùng phần mềm ở đầu ngón tay (dùng ngón tay cái, ngón trỏ hay ngón giữa) ấn trên lớp cơ bệnh lý từ lớp cơ ngoài vào tới lớp cơ giữa và lớp trong nhanh,chậm, nông, sâu tuỳ theo yêu cầu.
Hình thức thao tác :
1/ Thao tác nhanh để có một khái niệm ban đầu về khu vực có hiện tượng bệnh lý.
2/ Thao tác chậm để xác định loại di động hoặc không di động, lớp cơ dầy hoặc mỏng, cứng hoặc mềm.
3/ Thao tác nông để xác định hiện tượng bệnh lý khu trú ở lớp ngoài.
4/ Thao tác sâu để xác định hiện tượng bệnh lý khu trú ở lớp trong.
Trình tự thao tác :
1/ Thao tác ở hai bên đốt sống để xác định các hiện tượng đối xứng và mất đối xứng bệnh lý khu trú ở lớp ngoài, giữa, trong.
2/ Thao tác ở giữa mỏm gai sau đốt sống để xác định hình thái của đốt sống.
3/ Thao tác nhanh để phát hiện hiện tượng bệnh lý đối xứng và mất đối xứng.
4/ Thao tác chậm để phát hiện về hình thái cảm giác và vùng khu trú của hiện tượng bệnh Ịý này.
IV .THỦ THUẬT VÊ
Thủ thuật vê là thủ thuật khám bệnh được tiến hành sau thủ thuật ấn. Mục đính của thủ thuật vê là xác định trọng điểm, làm cơ sở cho việc chẩn đoán và phương hướng điều trị.
Trọng điểm được quy định bằng hình thái của đốt sống, hình thái của lớp cơ đệm, trạng thái về cảm giác và nhiệt độ da.
1/ về đốt sống:
- Điểm lồi nhất trên đốt sống lồi
- Điểm lồi nhất trên đốt sống lõm nhất.
- Điểm lệch nhất trên đốt sống lệch.
2/ về lớp cơ:
- Điểm co nhất ở lớp cơ co.
- Điểm cứng nhất trong lớp cơ cứng.
- Điểm dầy nhất trong lớp cơ dầy.
- Điểm dầy nhất trong lớp cơ teo.
- Điểm xơ nhất trong lớp cơ xơ.
- Sợi co nhất trong các sợi cơ co.
3/ về cảm giác :- Điểm đau nhất trong các điểm đau.
4/ về nhiệt độ : - Điểm có nhiệt độ cao nhất trong trọng khu.
Bốn đặc trưng trên đây đều khu trú tại một điểm nhỏ trên cột sống gọi là Trọng điểm. Phương pháp Tác động cột sổng Việt nam căn cứ vào trọng điểm để phân thành loại hình rối loạn từ đó có phương hướng xử lý thích hợp để giải toả trọng điểm.
Thủ thuật áp giúp ta xác định được trọng khu, thủ thuật Vuốt và Ấn giúp ta xác định được ổ rối loạn khu trú ở nông hay sâu. Thủ thuật Vê sẽ giúp ta xác định được trọng điểm ở vị trí nào trên mỏm gai sau đốt sống ; ở góc phía trên bên phải hay góc phía dưới bên phải hoặc trái hay ở chính giữa khe đốt.
Thủ thuật Vê : là dùng phần mềm ở đầu ngón tay đặt trên lớp cơ bệnh lý trên một diện hẹp bằng hình thức Vê di _di, Vê day _ day, Vê đẩy _ đẩy, Vê xoay _ xoay để xác định được trọng điểm.
Vê di _di : Di chuyển ngón tay trên lớp cơ bệnh lý để xác định hình thái của đốt sống và hình thái của lớp cơ bệnh lý co, cứng hay mềm
Vê day _ day : Đặt tĩnh ngốn tay trên lớp cơ bệnh lý, thao tác day_day tạo cho lớp cơ bệnh lý di chuyển để xác định hình thái lớp cơ bệnh lý dầy, mỏng, xơ, sợi hay teo.
Vê đẩy _ đẩy : Đặt tĩnh ngón tay trên lớp cơ bệnh lý, thao tác đẩy _ đẩy để xác định loại di động hoặc không di động.
Vê xoay _ xoay : Đặt tĩnh ngón tay trên lớp cơ bệnh lý thao tác bằng hình thức xoay tròn theo hướng trục cột sống, rộng, hẹp, nông, sâu tuỳ ý để xác định điểm có cảm giác đau nhất trong trọng khu.
Xác định điểm có cảm giác đau nhất trong những trường hợp cơ co cường, khi thao tác chỉ cần căn cứ vào hệ cơ và sự phản ứng của tiết đoạn thần kinh, biểu hiện ở những sợi cơ bệnh lý cũng đủ để xác định điểm có cảm giác nhược, phải căn cứ vào cảm giác của người bệnh, do đó trong khi thao tác phải hỏi người bệnh để xác định trọng điểm.
Trình tự thao tác: Các khu vực tiến hành thao tác gồm mỏm gai sau đốt sống (còn gọi là gai sau đốt sống ) và khe đốt.
- Thao tác ở giữa gai sau đốt sống để xác định về hình thái lớp cơ bệnh lý và điểm bệnh lý khu trú ở giữa gai đốt sống hay phần trên hoặc phần dưới.
- Thao tác ở cạnh gai sau đốt sống để xác định hình thái lớp cơ bệnh lý khu trú ở phía phải hoặc trái, trên hoặc dưới.
- Khe đốt gồn giữa và cạnh của khe đốt:
- Thao tác ở phần giữa khe đốt để phân biệt hình thái của đốt sống và lớp cơ bệnh lý khu trú ở phần trên và dưới của khe đốt.
- Thao tác ở phần cạnh khe đốt để phân biệt hình thái của đốt sống và lớp cơ bệnh lý khu trú ở phía phải hoặc trái, trên hoặc dưới.
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !
thuylt Đã gửi: 10/07/2017 lúc 09:48:05(UTC)
 
D. CẢM GIÁC
I. PHÂN BIỆT CẢM GIÁC ĐAU TRÊN CỘT SỐNG
Cơ thể con người có nhiều cảm giác khác nhau nhưng Phương pháp Tác động cột sống Việt nam chỉ căn cứ vào cảm giác đau tăng hoặc giảm trên hệ cột sống để chẩn đoán và trị bệnh.
Phương pháp Tác động cột sống Việt nam lại phân biệt cảm giác đau trên cột sống thành 2 dạng khác nhau:
- Cảm giác đau khu trú ở một vùng nhất định trên cột sống mà người bệnh tự mình nhận biết được gọi là cảm giác đau bệnh lý. Cảm giác đau bệnh lý và cảm giác đau thuộc về bệnh của cột sống như : Cột sống có hình gai đôi, cột sống vôi hoá hay thoái hoá, trật khớp, viêm cột sống dính khớp và nhiều trường hợp khác nữa.
- Cảm giác đau trên cột sống mà người bệnh chỉ nhận biết được khi thầy thuốc dùng thủ thuật tác động vào đúng vị trí đó gọi là cảm giác đau của hiện tượng bệnh ỉý. Cảm giác đau này có liên quan đến bệnh lý của các cơ quan nội tạng và mọi bộ phận cơ thể.
Ví dụ: Bệnh nhân bị cánh tay đau không giơ lên được. Nhiệt độ nóng ở vùng chẩm và ở cánh tay. Khi ta tác động vào các đốt sống C3 T9 L1_2 thì tại L1 sẽ có cảm giác rất đau. Cảm giác đau này là cảm giác đau hiện tượng bệnh lý.
Trong khám bệnh, Phương pháp Tác động cột sống Việt nam còn chú ý đến mối liên quan của cảm giác đau tăng hay cảm giác giảm với các đặc trưng bệnh lý.
Trên các đốt sống lồi, lồi lệch hay lệch thì ở nơi cao nhất, lệch nhất trên đầu gai sống biểu hiện lớp cơ co cộm, nhiệt độ nóng cao và khi ta tác động vào thì cảm giác đau tăng.
Trên các đốt sống lõm hoặc lệch lõm thì ở nơi lõm sâu nhất trên đầu gai sống biểu hiện lớp cơ nhược, nhiệt độ thấp và cảm giác giảm.
II. ỨNG DỤNG CẢM GIÁC ĐAU TRONG CHẨN VÀ TRỊ BỆNH
Phương pháp Tác động cột sống Việt nam căn cứ vào tính chất đau của cảm giác để chẩn đoán bệnh. Cảm giác đau của hiện tượng bệnh lý thường khu trú trên một diện rộng có thể từ một đến nhiều đốt sống liền nhau nhưng trong đó bao giờ cũng có một điểm nhỏ có cảm giác đau nhất. Điểm đau này thầy thuôc có thể nhận biết được bằng sự phản ứng của có thể người bệnh như giật thót minh. Khi oằn lưng xuống hoặc vặn vẹo qua phải hay trái khi thầy thuốc tác động vào.
Điểm đau nhất này được coi là trung tâm của hiện tượng bệnh lý khu trú ở trên hệ cột sống và được quy định gọi là trọng điểm.
Căn cứ vào hình thái lớp cơ tại trọng điểm (co, cộm, dầy mỏng, teo, nhược) nhiệt độ tại trọng điểm, sự biến đổi đốt sống tại trọng điểm và tính chất đau tại trọng điểm để chẩn đoán bệnh.
Đặc tính về cảm giác
Phương pháp Tác động cột sống Việt nam căn cứ vào cảm giác đau hoặc cảm giác trên hệ cột sống người bệnh để khám và chữa bệnh, chủ yếu là cảm giác đau của hiện tượng bệnh lý nghĩa là cảm giác đau khi thầy thuốc tác động bằng thủ thuật tại trọng điểm.
Đặc tính của cảm giác trong quá trình điều trị là:
1/ Khi thầy thuốc tác động tại trọng điểm người bệnh cảm thấy đau nhưng dễ chịu và trong quá trình thao tác trị bệnh, người bệnh cảm thấy bớt đau dần, từ đau nhiều đến đau ít và đến khi hết đau là lúc ổ bệnh được giải toả.
2/ Cảm giác đau cùng với nhiệt độ cao biểu hiện trên đốt sống lồi bệnh lý và điểm đau liên quan ở trên hoặc dưới trọng điểm, cùng bên với trọng điểm.
3/ Cảm giác đau cùng với nhiệt độ cao biểu hiện trên đốt sống lồi lệch bệnh lý hoặc lệch bệnh lý và điểm đối động ở gần hoặc xa, khác bên với trọng điểm.
4/ Cảm giác tê biểu hiện khác bên với trọng điểm.
5/ Cảm giác giảm cùng với nhiệt độ thấp biểu hiện trên đốt sống lõm hoặc lõm lệch.

Căn cứ vào đặc tính của cảm giác nói trên, Phương pháp Tác động cột sống Việt nam quy định: Trong quá trình thao tác (tác động) nếu người bệnh cảm thấy đau tăng và khó chịu thì phải ngừng thao tác, vì như vậy thao tác chưa đúng trọng điểm, phải xác định lại trọng điểm.
MỐI LIÊN QUAN HỮU CƠ
CỦA BỐN ĐẶC TRƯNG CỦA HỆ CỘT SÓNG
̉


PHẦN II
PHÂN BIỆT LOẠI VÀ THỂ
KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
Loại là sự phân biệt về hình thái của đốt sống mất bình thường như đốt sống lồi, đốt sống lồi lệch, đốt sống lệch, đốt sống lõm, đốt sống lõm lệch.
Loại phân biệt về hình thái lớp cơ đệm thì các loại phân biệt lớp cơ đệm trên đầu gai sống mất bình thường như lớp cơ dầy, lớp cơ mỏng, lớp cơ co, lớp cơ cứng, lớp cơ mềm, lớp cơ xơ, lớp cơ teo ...
Các thể là sự phân biệt về vị trí của lớp cơ bệnh lý khu trú ở nông hay sâu, ở lớp ngoài, giữa hay trong và bề mặt phát triển hẹp hay rộng hay lớn sang cơ lưng.
Định nghĩa về thể.
Thể là sự phân biệt về chiều sâu và bề rộng của vị trí khu trú của trọng điểm, cụ thể là lớp xơ bệnh lý tại đốt sống bệnh lý:
a/ Chiều sâu:
- Lởp ngoài: Lớp xơ bệnh lý, bám trên đầu gai sống.
- Lớp giữa : Lớp xơ bệnh lý bám ở phía sâu hơn đốt sống.
- Lớp trong: Lớp xơ bệnh lý bám ở sâu phía trong đốt sống
b/ Bề rộng:
- Hẹp : là bề mặt phát triển của lớp xơ bệnh lý chỉ bám ở trên đầu gai sống.
- Rộng: là lớp xơ bám ở đầu gai sống và lan rộng sang rãnh sống.
- Lớn : là lớp xơ bám ở đầu gai sống và lan rộng qua rãnh sống sang đến thẳng lưng.
Tóm lại : Loại và thể của các đốt sống bệnh lý chính xác là sự xác định vị trí của lớp xơ bệnh lý cần giải toả dựa vào chiều sâu và bề rộng khu trú.
II. PHÂN BIỆT CÁC THỂ.
a/ Thể ngoài Thể ngoài là thể mà lớp xơ bệnh lý bám nông ở trên đầu gai sống bệnh lý và phân chia thành :
- Thể ngoài hẹp tức là lớp xơ bệnh lý chỉ bám nông trên đầu gai sống.
- Thể ngoài rộng tức là lớp xơ bệnh lý bám nông ở đầu gai sống nhưng lan rộng ra rãnh sống..
- Thể ngoài lớn tức là lớp xơ bệnh Ịý bám nông ở đầu gai sống nhưng lan qua rãnh sống sang cơ thẳng lưng.
b/ Thể giữa Là thể mà lớp xơ bệnh lý bám ở giữa lớp cơ nông và lớp cơ sâu của đốt sống bệnh lý phân chia thành thể hẹp, thể giữa hẹp, thể giữa rộng, thể giữa lớn.
c/ Thể trong Là thể mà lớp xơ bệnh lý bám rất sâu ở phía trong đốt sống bệnh lý và phân chia thành thể trong hẹp, thể trong rộng, thể trong lớn.
d/ Các thể hiên: Là thể mà lớp xơ bệnh lý bám ở nhiều lớp cơ và phân chia thành các thể liên như sau:
- Thể liên ngoài hẹp.
- Thể liên ngoài giữa rộng.
- Thể liên ngoài giữa lớn.
- Thể liên giữa trong hẹp
- Thể liên giữa trong rộng.
- Thể liên giữa trong lớn.
- Thể liên ngoài giữa trong hẹp
- Thể liên ngoài giữa trong rộng.
- Thể liên ngoài giữa trong lớn.
Ngoài các thể đơn còn có các thể liên như liên lồi, liên lệch, liên lồi lệch, liên lõm, liên lõm lệch.
Ngoài hai hình thái về đốt sống và lớp cơ nói trên ( nói ở phần loại) ở khu vực đó còn có trạng thái nhiệt độ da cao hoặc thấp, cảm giác đau tăng hoặc giảm ở trên đầu gai các đốt sống bệnh lý.
Tóm lai: Các loại và thể là cơ sở cho chẩn đoán bệnh, tiên lượng bệnh và đề ra phương hưóng điều trị.
III. HÌNH THÁI LOẠI VÀ THỂ TRÊN CÁC ĐỐT SỔNG KHÔNG BÌNH THƯỜNG
1/ Hình thái loại và thể đốt sống lồi
Loại: Đốt sống lồi là hình thái của đốt sống cong lồi ra phía sau ảnh hưởng đến đường cong sinh lý của cột sống, biểu hiện bằng các hình thái:
- Loại đơn lồi.
- Loại liên lồi
- Loại lồi trên.
- Loại lồi dưới.
Hình thái lớp cơ đệm trên đầu đốt sống lồi gồm: co, cứng, mềm, dầy, mỏng, xơ, rối chia ra nhiều thể.
Thể : Các loại đốt sống lồi đều có thể biểu hiện 1 trong 3 thể:
- Thể hẹp ngoài viết tắt là HN
- Thể rộng ngoài viết tắt là RN
- Thể lớn ngoài viết tắt là LN.
Ngoài hai hình thái nói trên còn có các trạng thái như nhiệt độ cao, cảm giác đau ở trên đầu gai các đốt sống bệnh lý.
2/ Hình thái loại và thể đốt sống lồi lệch.
ốt sống lồi lệch là hình thái của đốt sống mất bình thường, lồi ra phía sau và lệch về một bên phải hoặc trái, ảnh hưởng đến đường cong và dường thẳng sinh lý của hệ cột sống biểu hiện bằng nhiều hình thái khác nhau. Lớp cơ đệm trên đốt sống lồi cũng biểu hiện thành nhiều hình thái mất bình thường khác nhau.
Hình thái loại và thể của đốt sống lồi lệch gồm có;
- Loại đơn lồi lệch.
- Loại liên lồi lệch.
- Loại lồi lệch trên.
- Loại lồi lệch dưới.
Lớp cơ đệm trên đầu gai sống đốt sống lồi lệch có các hình thái như: Lớp có co dầy, co mỏng, mềm dầy, mềm mỏng, cứng mỏng, xơ dọc, xơ ngang, xơ rối, xơ chéo, tròn dọc, tròn ngang, tròn chéo, dẹt dọc, dẹt ngang, dẹt chéo.
Về thể của các loại đốt sống lồi lệch có các thể:
- Thể ngoài hẹp.
- Thể ngoài, giữa hẹp
- Thể ngoài rộng
- Thể ngoài, giữa rộng.
- Thể ngoài lớn.
- Thể ngoài giữa lớn
3/ Hình thái loại và thể đốt sống lệch:
Đốt sống lệch là hình thái của đốt sống không Lồi, không Lõm nhưng Lệch về một bên phải hoặc trái ảnh hưởng đến đường thẳng sinh lý của hệ cột sống biểu hiện cụ thể bằng các hình thái như:
a/ Đơn lệch (Một đốt lệch phải hoặc trái).
b/ Liên lệch( Nhiều đốt sống lệch phải hoặc trái).
c/ Lệch trên ( Phần trên đốt sống lệch phải hoặc trí)
d/ Lệch dưới (Phần dưới đốt sống lệch phải hoặc trái).
Hình thái của lớp cơ đệm ở trên đầu gai đốt sống Lệch cũng gồm: Co, Cứng, Mềm, Dầy, Mỏng, Xơ, Sợi dọc, Sợi ngang, Sợi chéo.
Ngoài hai hình thái ở trên còn có các trạng thái như nhiệt độ da tăng hoặc giảm, cảm giác đau tăng hoặc giảm ở trên đầu gai các đốt sống bệnh
4/ Hình thái loại và thể Đốt sống lõm lệch.
Đốt sống lõm lệch là hình thái của đốt sống Lõm và Lệch về một phía phải hoặc trái, ảnh hưởng đến đường thẳng và đường cong sinh lý của hệ cột sống, gồm các hình thái như:
a/ Đơn lõm lệch.
b/ Liên lõm lệch.
c/ Lõm lệch trên.
d/ Lõm lệch dưới.
Trên đầu gai đốt sống lõm lệch, lớp cơ đệm biểu hiện xơ rối, xơ teo, sợi.
Ngoài ra tại khu vực này còn có trạng thái nhiệt độ cao hoặc thấp, cảm giác đau hoặc giảm ở trên đầu gai đốt sống bệnh lý.
KẾT LUẬN: Loại là sự phân biệt về hình thái của đốt sống mất bình thường và hình thái lớp cơ đệm trên đầu gai sống mất bình thường, còn Thể là sự phân biệt về vị trí của lớp cơ bệnh lý ở nông hay sâu, ở lớp cơ ngoài, lớp giữa hay lớp trong và bề mặt lớp cơ phát triển hẹp, rộng hay lớn sang cơ lưng.
Các loại và thể là cơ sở cho chẩn đoán bệnh, tiên lượng bệnh và đề ra phương hướng điều trị.
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !
thuylt Đã gửi: 10/07/2017 lúc 09:45:24(UTC)
 
B. LỚP CƠ
I. KHÁI NIỆM VỀ CƠ
Cơ còn gọi là bắp thịt, là một phần của hệ vận động. Mô cơ là một loại mô liên kết trong cơ thể động vật. Mô cơ gồm 3 loại: Mô cơ vân (hay còn gọi là cơ xương), mô cơ tim và mô cơ trơn. Ba loại cơ này chiếm 50% trọng lượng cơ thể, trong đó cơ vân chiếm 40 %.
Chức năng của mô cơ là co, dãn tạo nên sự vận động, tạo nhiệt cho cơ thể. Hệ cơ vân gồm 2 đầu bám xương : một đầu là Nguyên ủy, một đầu là Bám tận (hay 1 đầu gắn với xương, còn một đầu gắn với da. Như cơ mặt).
Dưới sự chỉ huy của hệ thần kinh, cơ co làm cho xương cử động, vì thế còn gọi là cơ xương.
Tùy vị trí trên cơ thể và tùy chức năng mà cơ có hình dạng khác nhau như : hình tấm, hình lông chim, nhiều đầu hay nhiều thân. Điển hình là cơ bắp (vẫn quen gọi là con chuột) ở cánh tay có hình thoi dài.
Cơ bắp có nhiều bó cơ, mỗi bó cơ được hợp thành bởi từ rất nhiều sợi cơ (là tế bào cơ) có chiều dài từ 10 - 40 mm và đường kính từ 10 - 80 micromet nằm dọc theo chiều dài bắp cơ. Hai đầu bắp cơ thuôn nhỏ lại, dài ra thành gân bám vào các xương qua khớp, phần phình to gọi là bụng cơ. Bắp cơ càng khỏe thì bụng cơ càng phình to làm nổi cuộn cơ bắp.
Mỗi sợi cơ sẽ gắn với một đầu tận cùng thần kinh và được tạo thành bởi vô số những sợi nhỏ gọi là tơ cơ. Đây chính là các đơn vị co cơ cơ bản. mỗi tơ cơ sẽ gồm 2 loại Protein gọi là sợi actin và sợi myosin. Các sợi này xếp chồng lên tạo thành những vân sáng, vân tối xen kẽ (vì vậy gọi là cơ vân). Sự co cơ xảy ra khi các sợi này trượt chồng lên lẫn nhau làm tơ cơ ngắn lại.
Khi các tơ cơ mảnh xâm nhập vào vùng phân bố của các tơ cơ dày sẽ khiến tơ cơ rút ngắn về chiều dài và phình to tạo nên sự co cơ, hoạt động này sản xuất ra lực gây chuyển động. Nó chịu trách nhiệm duy trì và thay đổi vận động hoặc duy trì tư thế của cơ thể.
Trong bắp cơ có nhiều mạch máu và dây thần kinh chia thành nhiều nhánh nhỏ đi đến từng sợi cơ. Nhờ thế mà cơ tiếp nhận được chất dinh dưỡng và các kích thích.
II. ĐẶC ĐIỀM VÀ HÌNH THÁI LỚP CƠ TRÊN ĐỐT SỐNG KHÔNG BÌNH THƯỜNG:
Căn cứ vào sự biến đổi của lớp cơ khi các đốt sống tương ứng bị biến đổi, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quan niệm và phân chia các hình thái lớp cơ theo hình thái cột sống bị biến đối như sau:
1. Hình thái lớp cơ trên đốt sống lồi, liên lồi
Mỏm gai sau đốt sống còn lại còn gọi là đầu gai sống lồi ra phía sau toàn phần hay lồi cân ở phần trên hay phần dưới thì lớp cơ trên đầu gai sống chỗ lồi đó sẽ dầy cộm lên.
Mỏm gai sau của nhiều đốt sống liền nhau lồi ra phía sau thì lớp cơ trên phần lồi đó dầy cộm hơn các khu vực khác.
2. Hình thái lớp cơ trên đốt sống lồi lệch:
Đốt sống lồi lệch là đốt sống có đầu gai sau lồi ra phía sau và lệch sang một bên. Lớp cơ trên đầu gai đốt sống lệch dầy cộm hơn, cơ bên đối xứng bị khuyết mỏng hơn bình thường.
Lớp cơ trên đầu gai của nhiều đốt sống liền nhau và lệch về một bên ( phải hoặc trái) dầy cộm hơn về phía bên lồi lệch và bên đối xứng của các đốt sống bị khuyết mỏng hơn các khu vực bình thường.
3. Hình thái lớp cơ trên đốt sống lệch:
Đốt sống lệch là đốt sống không lồi, không lõm nhưng lệch sang một bên. Lớp cơ trên đầu gai các đốt sống lệch dầy cộm hơn về bên lệch và bên đối xứng bị khuyết mỏng hơn khu vực bình thường.
Nhiều đốt sống liền nhau lệch sang một bên gọi là liên lệch, Lớp cơ trên đầu gai các đốt sống liên lệch dầy cộm hơn về bên lệch và bên đối xứng bị khuyết mỏng hơn khu vực bình thường.
4. Hình thái lớp cơ trên đốt sống lõm lệch:
Đầu gai sau đốt sống lõm về phía trước và lệch sang một bên gọi là đốt sống lõm lệch. Nhiều đốt sống liền nhau như vậy là đốt sống liên lõm.
Lớp cơ trên đầu gai các đốt sống lỗm lệch co mỏng hơn các lớp cơ ở khu vực bình thường và đặc biệt lớp cơ bên lệch bị co cứng và bên đối xứng bị khuyết lõm.
Lớp cơ trên đầu gai các đốt sống liên lõm lệch teo mỏng hơn các lớp cơ ở khu vực bình thường và đặc biệt lớp cơ bên liên lệch bị co cứng và bên đối xứng bị khuyết lõm.
5. Hình thái lớp cơ trên đốt sống lõm.
Đốt sống lõm về phía trước thì cơ ở trên đầu gai sống bị teo mỏng hơn lớp cơ ở các khu vực của các đốt sống bình thường.
Nhiều đốt sống liền nhau lõm về phía trước thì cơ ở cả một khu vực lõm đó đều teo mỏng hơn lớp cơ của khu vực các đốt sống bình thường.
6. Hình thái lớp cơ dầy cộm.
Lớp cơ dầy cộm ở trên đốt sống không b́nh thường có các hình thái: Hình thái thý nhuận, hình thái cứng hơn thư nhuận, hình thái mềm hơn thư nhuận như sau:
a. Hình thái thư nhuận: Khi ấn, miết và vê trên lớp cơ cộm cảm thấy lớp cơ có vẻ thư nhuận như những lớp cơ bình thường nhưng đặc biệt là lớp cơ này bị cộm, gợn. Cộm ít là mỏng, cộm nhiều là dầy. Hình thái này đẩy không chuyển động.
b. Hình thái cơ cứng: Khi ấn, miết vê trên lớp cơ cộm ta cảm thấy lớp cơ đó bị cứng hơn các lớp cơ thư nhuận. Đặc biệt lớp cơ này còn có cộm ít (tức là mỏng) và nhiều tức là dầy.
c. Hình thái cơ mềm: Khi ấn, miết và vê trên lớp cơ cộm ta cảm thấy lớp cơ đó mềm và nát hơn các lớp thư nhuận bình thường. Đặc biệt lớp cơ này cũng có cộm ít (tức là mỏng) và nhiều tức là dầy. Hình thái này đẩy không chuyển.
7. Hình thái lớp cơ thành sợi:
Lớp cơ thành sợi trên đốt sống không bình thường có các hình thái: Sợi tròn to (như dây thừng), sợi xơ nhỏ (thành lớp lăn tăn), sợi xơ rối (như đám tóc rối kết lại), Sợi dẹt to thành dải dai chắc, sợi dẹt mỏng nhiều lớp lăn tăn.
a. Hình thái sợi tròn to: Khi miết ta cảm thấy chuyển động, có hình dáng tròn thành sợi như dây thừng, ấn không tan và dai chắc.
b. Hình thái sợi xơ cứng: khi miết ta cảm thấy những sợi xơ nhỏ này căng và cứng, ấn không tan và dai chắc. Có trường hợp thể hiện lên thành đám rộng hẹp khác nhau nhưng xếp theo một chiều như ta xếp nắm tăm, miết trên lớp cơ này thấy lăn tăn và chuyển động.
c. Hình thái sợi xơ rối: Khi miết ở trên thể này ta thấy lăn tăn rất nhỏ, hình dung như cục tóc rối bám chắc ở đàu gai sống.
d. Hình thái xơ dẹt, dầy to: Khi miết và vê ta cảm thấy như dải dẹt dai chắc, miết trượt cảm thấy chuyển động hình dung như một sợi dẹt dài ngắn khác nhau.
e. Hình thái sợi dẹt mỏng: Khi miết và vê ta thấy nhiều lớp mỏng co cứng xếp lại chồng lên nhau, không thành sợi dài. Khi miết trượt cảm thấy chuyển động và thành lớp lăn tăn co cứng . Những hình thái sợi dài nói trên dây có nhiều trường hợp khác : Sợi dài bắt chéo từ cột sống sang cơ lưng, từ cơ lưng nằm ngang đè lên đầu gai sống và nằm dọc ở cột sống dài hay ngắn, to hay nhỏ khác nhau.
8. Hình thái lớp cơ teo mỏng:
a. Hình thái teo mỏng:khi miết vê trên đốt sống không bình thường ta cảm thấy lớp cơ trên đầu gai sống bị teo mỏng hơn lớp cơ ở các đốt sống bình thường.Chú ý là khi ta đặt ngón tay trên đầu gai sống chỉ cảm thấy có một lớp da mỏng phủ trên đầu gai sống mà không cảm thấy lớp cơ đệm.
b. Hình thái khuyết lõm: Khi miết và vê trên đốt sống không bình thường (khuyết lõm) ta cảm thấy đầu gai sống như bị khuyết đi mà lớp cơ ở chỗ khuyết do bị lõm sâu xuống khác thường.
III. ĐẶC TÍNH CỦA LỚP CƠ:
1. Có thể dùng thủ thuật trị bệnh đễ làm thay đổi hình thái lớp cơ.
Trong khi thao tác trị bệnh, thầy thuốc cần tập trung theo dõi cảm giác trên đầu ngón tay của mình để có thể nhận thấy khi lớp cơ có thay đổi trong khi thao tác . Cụ thể là lớp cơ co cứng, dầy sẽ bớt cứng rồi mềm trở lại thư nhuận bình thường, lớp cơ nhược sẽ phục hồi dần, hết nhược rồi trở lại thư nhuận bình thường.
2. Khi lớp cơ đã thư nhuận bình thường là ổ bệnh đã được giải tỏa, thao tác đến ngưỡng thì phải dừng tay ngay. Sở dĩ thầy thuốc cần theo dõi sự biến đổi của lớp cơ trong khi thao tác vì khi đã có hiện tượng báo đến ngưỡng của định lượng mà vẫn tiếp tục thao tác thì lớp cơ bị tác động quá ngưỡng sẽ có phản vệ co lại, hiệu quả vừa đạt được sẽ bị xoá hoàn toàn, lớp cơ bị tác động quá nhiều có thể bị sưng đau, người bệnh lại có cảm giác khó chịu như ban đầu.
3. Lớp cơ co cứng căng như mặt trống: Những trường họp này chỉ có thể làm lớp cơ thay đổi bằng cách đắp bột cua đồng thời phối hợp với thủ thuật mới phục hồi được sự thư nhuận của lớp cơ.
4. Lớp cơ co dày gây cảm giác rất đau nhưng phục hồi rất nhanh. Có khi thầy thuốc chỉ điều trị một lần tại trọng điểm đã hết co.
5. Lớp cơ co mỏng phải điều trị lâu dài mới phục hồi được. Những lớp cơ này tương ứng với những bệnh mãn tính, những ổ bệnh đã có tổn thương thực thể
6. Lớp cơ mềm dầy tương ứng với các loại nhiễm trùng Lao. Vì vậy phải kết hợp thuốc chống lao trong quá trình điều trị mới giải toả được.
7. Lớp cơ mềm mỏng không gặp trong hình thái bệnh lý mà là hậu quả biến đổi đột ngột của tác động quá lực, nếu không điều chỉnh lại sẽ gây ra một sự rối loạn mới. Vì vậy gặp trường hợp này thầy thuốc phải lập tức tác động ngay bên đối xứng của trọng điểm để cho lớp cơ mềm mỏng đó được phục hồi lại ngay.
8. Lớp cơ sợi chỉ gặp trong lớp cơ sâu của các đốt sống bị khuyết lõm, ít gặp trong đốt sống lệch và không gặp đốt sống lồi. Hình thái này chỉ thay đổi khi thầy thuốc đã giải toả được các đốt sống lồi hoặc lồi lệch ở phía trên của đốt sống lõm ấy.
9. Lớp cơ teo nhược chỉ phục hồi khi đã giả toả được những lớp cơ co cộm ở phía trên của chỗ có cơ teo nhược
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !
thuylt Đã gửi: 09/07/2017 lúc 11:12:34(UTC)
 
PHẦN I
CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG PHÁP TĐCS

Cơ thể con người là một cấu trúc hoàn chỉnh chặt chẽ và được quản lý, điều khiển, phối hợp với nhau bởi hệ thần kinh. Vì vậy khi có bất cứ một sự bất thường nào của một bộ phận cũng sẽ có một tác động gây bât thường ở bộ phận tương ứng có liên quan. Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào đó đề ra 4 đặc trưng cơ bản là:
1. Cột sống 2. Lớp cơ
3. Nhiệt độ 4. Cảm giác.
A. CỘT SỐNG
I. Cấu tạo: Cột sống cấu tạo gồm có 33 đến 34 đốt sống hợp thành
1. Theo y học hiện đại cột sống được chia ra làm 5 phần:

Tên đốt sống Ký hiệu Tên đầy đủ
7 đôt sông cô C1 - C7 C: Cervicalis
12 đốt sống lưng T1 - T12 T: cũng có thể gọi là D
5 đốt sống thắt lưng L1 - L5 L: Lombalis
5 đốt sống cùng S1 - S5 S: Sacrilis
4 đến 5 đốt sống cụt Cx Coccyx

2. Theo phương pháp Tác động cột sống : Để ứng dụng các thủ thuật thích hợp, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào đường cong sinh lý của cột sống để chia hệ cột sống thành 9 vùng khác nhau gồm:

1 Tam giác cơ số 1 (vùng cổ trên) Có 3 đốt
2 Tam giác cơ số 2 (vùng cổ dưới) Có 4 đốt C4 -C7
3 Tam giác cơ số 3 (cùng lưng trên) Có 3 đốt T1 -T3
4 Tam giác cơ số 4 (vùng giữa lưng) Có 4 đốt T4 -T7
5 Tam giác cơ số 5 (vùng lưng dưới) Có 5 đốt T8 -T12
6 Tam giác cơ số 6 (vùng thắt lưng trên) Có 3 đốt L1 - L3
7 Tam giác cơ số 7 (vùng thắt lưng dưới) Có 2 đốt L4 -L5
8 Tam giác cơ số 8 (vùng cùng ) Có 5 đốt liên tảng S1 - S5
9 Tam giác cơ số 9 (vùng cụt coccyx) Có từ 4 đến 5 đốt sống
3. Cách nhận biết vị trí các đốt sống :
3.1. Đốt sống cổ: Gồm 7 đốt, nếu lấy C1 và C7 là hai điểm đầu và cuối thì các đốt sống cổ có hướng cong về phía trước, C4 là đốt cong về phía trước nhiều nhất.
- Cl: Là đốt đội (Atlat) sờ khó thấy, là đốt nâng đỡ hộp sọ nên có hình tròn dẹt, thân đốt không rõ và lỗ đốt rất rộng đảm bảo cho hộp sọ có thể quay chuyển dễ dàng.
- C2: Là đốt trục (Axis) có hình khuyên tròn, phía trên và trước khuyên này lồi lên một mỏm gọi là mỏm xương khế dày, khỏe và sờ thấy rõ.
- Đốt đội và đốt trục giúp cho hộp sọ chuyển động : quay phải, quay trái, cúi xuống và ngửa lên dễ dàng.
- C3: Đưa ra phía trước hơn C2
- C4: Là đốt đưa ra phía trước nhiều nhất.
- C5: Có su hướng chuyển ra sau
- C6: Là đốt lồi trên, gai sống chẻ đôi là điểm đầu của động mạch sống nền đi vào và cung cấp máu lên não.
- C7: Là đốt lồi cao nhất trong các đốt sống cổ (chuyển động khi ta quay đầu sang trái hay phải để phân biệt với đốt Tl)
- Các đốt sống cổ từ C1 đến C6 ở mỏm ngang có lỗ để cho động mạch sống nền đi qua.
- Các đốt sống này là một trong những đốt sống bản lề giúp đầu chuyển động được theo nhiều hướng khác nhau.
3.2. Đốt sống lưng:
Có 12 đốt do cần tiếp xúc với các đầu xương sườn, nên mỗi đốt xương có tới bốn diện khớp để tiếp giáp với xương sườn. Các lỗ đốt đều tròn, thân đốt khá dày, mỏm gai rất dài và thõng sâu. Do đó khi ta sờ thấy mỏm gai của một đốt sống lưng nào đó thì ngón tay ta đã đặt ngang tầm thân của đốt dưới rồi.
Để xác định đốt sống lưng và thắt lưng ta phải dựa vào các điểm góc, cạnh của xương bả vai, xương sườn cụt và xương hông làm mốc.
- Tl: Là đốt nằm dưới lồi dưới của C7 (Khi cúi và quay đầu thì đốt chuyển động là C7 còn đốt không chuyển động là Tl)
- Từ T1 trở xuống cột sống có xu thế cong về phía sau.
- T2: Nằm dưới T1
- T3: Là đốt nằm trên đường nối hai bờ trong, phía trên của xương bả vai.
- T4: Là đốt nhô cao hơn T3
- T7: Là đốt nằm trên đường thẳng nối hai bờ dưới của xương bả vai.
- T10: Là đốt cong ra phía sau nhất khi cúi và là đốt lõm nhất trong các đốt sống lưng khi ưỡn lưng.
Đốt sống thắt lưng:
Các đốt sống thắt lưng khỏe hơn rất nhiều so với các đốt sống lưng vì chúng phải chịu toàn bộ sức nặng của cơ thể lên nó. Các mỏm gai ngắn, rộng và ngang thân đốt to, không tiếp khớp với xương sườn nên các mỏm gai dài và nhọn, lỗ đốt hình tam giác.
- LI : Nằm dưới T12
- L2 : Nằm trên đường thẳng nối hai đầu xương sườn cụt (nơi eo bắt đầu thắt lại)
- L4 : Nằm trên đường thẳng nối hai bờ trên xương hông.
Chú ý: * Nam giới : L4 và L5 đưa về phía trước (lõm)
* Nữ giởi: L4 và L5 thẳng đều (bằng)
(Nếu không có như vậy là có hiện tượng của bệnh lý)
Các đốt sống này là một trong những đốt sống bản lề giúp cơ thể chuyển động được theo nhiều hướng khác nhau.
3.3. Đốt sống cùng:
Từ S1 đến S5 cột sống dung hợp thành một tảng lớn có xu hướng đưa về phía sau. Điểm cao nhất là S5.
3.4. Đốt sống cụt:
Các đốt sống cụt cũng dung hợp thành một tảng và cong về phía trước
II. Hình thái cột sống không bình thường:
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam khi chẩn và trị bệnh không chỉ quan sát hình thái cột sống mà còn tìm hiểu kỹ về sự biến đổi hình thái của từng đốt sống khi nhìn nghiêng và nhìn thẳng. Những biểu hiện này trên hình thái cột sống cộng với những phản ứng và phản xạ có thế về nhiệt độ da tại các khu vực, về hiện tượng co cơ và cảm giác chủ quan của người bệnh (triệu chứng đau lâm sàng) mới hợp thành những cơ sở để người thầy thuốc chẩn đoán và xác định khu vực cần xử lý.
Khi các đốt sống không bình thường, ta thường gặp các hình thái biến đổi sau đây:
- Đốt sống đơn lồi (một đốt sống lồi cao hơn bình thường khi nhìn nghiêng)
- Đốt sống liên lồi (có từ hai đốt sống liền nhau lồi cao hơn bình thường)
- Đốt sống đơn lệch (có một đốt sống lệch sang một bên khi nhìn thẳng)
- Đốt sống liên lệch (có từ hai đốt sống liền nhau lệch sang một bên)
- Đốt sống đơn lồi lệch (có một đốt sống lồi và lệch sang 1 bên)
- Đốt sống liên lồi lệch (có từ hai đốt sống lồi và lệch sang 1 bên)
- Đốt sống đơn lõm (có một đốt sống lõm xuống khi nhìn nghiêng )
- Đốt sống liên lõm (có từ hai đốt sống liền nhau lõm xuống khi nhìn nghiêng)
III. Đặc tính của đốt sống không bình thường:
Các đốt sống khổng bình thường còn gọi là các đốt sống bệnh lý có thể phục hồi được qua thao tác điều trị.
Theo kinh nghiệm của phương pháp Tác động cột sống Việt Nam các hình thái đốt sống bệnh lý như lồi, lệch, lõm v.v. .Nếu rối loạn ít có thể phục hồi ngay qua một lần điều trị, nếu rối loạn lớn hơn có thể phục hồi dần dần trong quá trình điều trị.
Khi đã gọi là đốt sống bệnh lý, thì dù ở hình thái nào (lồi, lệch, hay lõm) bao giờ cũng có hiện tượng dính cứng ở một hay nhiều đốt sống. Có trường hợp đốt sống chỉ dính ở phần trên, hay góc trên với đốt sống trên (hình thái đơn lệch trên hay dưới), lại có trường hợp đốt sống bệnh dính cả phần trên với đốt sống trên và phần dưới với đốt sống dưới ( hình thái lệch cân toàn phần)
Dựa vào hình thái của đốt sống và đặc tính này để người thầy thuốc đề ra phương hướng điều trị thích hợp
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !
thuylt Đã gửi: 09/07/2017 lúc 10:58:37(UTC)
 
PHẦN I
CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG PHÁP TĐCS

Cơ thể con người là một cấu trúc hoàn chỉnh chặt chẽ và được quản lý, điều khiển, phối hợp với nhau bởi hệ thần kinh. Vì vậy khi có bất cứ một sự bất thường nào của một bộ phận cũng sẽ có một tác động gây bât thường ở bộ phận tương ứng có liên quan. Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào đó đề ra 4 đặc trưng cơ bản là:
1. Cột sống 2. Lớp cơ
3. Nhiệt độ 4. Cảm giác.
A. CỘT SỐNG
I. Cấu tạo: Cột sống cấu tạo gồm có 33 đến 34 đốt sống hợp thành
1. Theo y học hiện đại cột sống được chia ra làm 5 phần:

Tên đốt sống Ký hiệu Tên đầy đủ
7 đôt sông cô C1 - C7 C: Cervicalis
12 đốt sống lưng T1 - T12 T: cũng có thể gọi là D
5 đốt sống thắt lưng L1 - L5 L: Lombalis
5 đốt sống cùng S1 - S5 S: Sacrilis
4 đến 5 đốt sống cụt Cx Coccyx

2. Theo phương pháp Tác động cột sống : Để ứng dụng các thủ thuật thích hợp, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào đường cong sinh lý của cột sống để chia hệ cột sống thành 9 vùng khác nhau gồm:

1 Tam giác cơ số 1 (vùng cổ trên) Có 3 đốt
2 Tam giác cơ số 2 (vùng cổ dưới) Có 4 đốt C4 -C7
3 Tam giác cơ số 3 (cùng lưng trên) Có 3 đốt T1 -T3
4 Tam giác cơ số 4 (vùng giữa lưng) Có 4 đốt T4 -T7
5 Tam giác cơ số 5 (vùng lưng dưới) Có 5 đốt T8 -T12
6 Tam giác cơ số 6 (vùng thắt lưng trên) Có 3 đốt L1 - L3
7 Tam giác cơ số 7 (vùng thắt lưng dưới) Có 2 đốt L4 -L5
8 Tam giác cơ số 8 (vùng cùng ) Có 5 đốt liên tảng S1 - S5
9 Tam giác cơ số 9 (vùng cụt coccyx) Có từ 4 đến 5 đốt sống
3. Cách nhận biết vị trí các đốt sống :
3.1. Đốt sống cổ: Gồm 7 đốt, nếu lấy C1 và C7 là hai điểm đầu và cuối thì các đốt sống cổ có hướng cong về phía trước, C4 là đốt cong về phía trước nhiều nhất.
- Cl: Là đốt đội (Atlat) sờ khó thấy, là đốt nâng đỡ hộp sọ nên có hình tròn dẹt, thân đốt không rõ và lỗ đốt rất rộng đảm bảo cho hộp sọ có thể quay chuyển dễ dàng.
- C2: Là đốt trục (Axis) có hình khuyên tròn, phía trên và trước khuyên này lồi lên một mỏm gọi là mỏm xương khế dày, khỏe và sờ thấy rõ.
- Đốt đội và đốt trục giúp cho hộp sọ chuyển động : quay phải, quay trái, cúi xuống và ngửa lên dễ dàng.
- C3: Đưa ra phía trước hơn C2
- C4: Là đốt đưa ra phía trước nhiều nhất.
- C5: Có su hướng chuyển ra sau
- C6: Là đốt lồi trên, gai sống chẻ đôi là điểm đầu của động mạch sống nền đi vào và cung cấp máu lên não.
- C7: Là đốt lồi cao nhất trong các đốt sống cổ (chuyển động khi ta quay đầu sang trái hay phải để phân biệt với đốt Tl)
- Các đốt sống cổ từ C1 đến C6 ở mỏm ngang có lỗ để cho động mạch sống nền đi qua.
- Các đốt sống này là một trong những đốt sống bản lề giúp đầu chuyển động được theo nhiều hướng khác nhau.
3.2. Đốt sống lưng:
Có 12 đốt do cần tiếp xúc với các đầu xương sườn, nên mỗi đốt xương có tới bốn diện khớp để tiếp giáp với xương sườn. Các lỗ đốt đều tròn, thân đốt khá dày, mỏm gai rất dài và thõng sâu. Do đó khi ta sờ thấy mỏm gai của một đốt sống lưng nào đó thì ngón tay ta đã đặt ngang tầm thân của đốt dưới rồi.
Để xác định đốt sống lưng và thắt lưng ta phải dựa vào các điểm góc, cạnh của xương bả vai, xương sườn cụt và xương hông làm mốc.
- Tl: Là đốt nằm dưới lồi dưới của C7 (Khi cúi và quay đầu thì đốt chuyển động là C7 còn đốt không chuyển động là Tl)
- Từ T1 trở xuống cột sống có xu thế cong về phía sau.
- T2: Nằm dưới T1
- T3: Là đốt nằm trên đường nối hai bờ trong, phía trên của xương bả vai.
- T4: Là đốt nhô cao hơn T3
- T7: Là đốt nằm trên đường thẳng nối hai bờ dưới của xương bả vai.
- T10: Là đốt cong ra phía sau nhất khi cúi và là đốt lõm nhất trong các đốt sống lưng khi ưỡn lưng.
Đốt sống thắt lưng:
Các đốt sống thắt lưng khỏe hơn rất nhiều so với các đốt sống lưng vì chúng phải chịu toàn bộ sức nặng của cơ thể lên nó. Các mỏm gai ngắn, rộng và ngang thân đốt to, không tiếp khớp với xương sườn nên các mỏm gai dài và nhọn, lỗ đốt hình tam giác.
- LI : Nằm dưới T12
- L2 : Nằm trên đường thẳng nối hai đầu xương sườn cụt (nơi eo bắt đầu thắt lại)
- L4 : Nằm trên đường thẳng nối hai bờ trên xương hông.
Chú ý: * Nam giới : L4 và L5 đưa về phía trước (lõm)
* Nữ giởi: L4 và L5 thẳng đều (bằng)
(Nếu không có như vậy là có hiện tượng của bệnh lý)
Các đốt sống này là một trong những đốt sống bản lề giúp cơ thể chuyển động được theo nhiều hướng khác nhau.
3.3. Đốt sống cùng:
Từ S1 đến S5 cột sống dung hợp thành một tảng lớn có xu hướng đưa về phía sau. Điểm cao nhất là S5.
3.4. Đốt sống cụt:
Các đốt sống cụt cũng dung hợp thành một tảng và cong về phía trước
II. Hình thái cột sống không bình thường:
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam khi chẩn và trị bệnh không chỉ quan sát hình thái cột sống mà còn tìm hiểu kỹ về sự biến đổi hình thái của từng đốt sống khi nhìn nghiêng và nhìn thẳng. Những biểu hiện này trên hình thái cột sống cộng với những phản ứng và phản xạ có thế về nhiệt độ da tại các khu vực, về hiện tượng co cơ và cảm giác chủ quan của người bệnh (triệu chứng đau lâm sàng) mới hợp thành những cơ sở để người thầy thuốc chẩn đoán và xác định khu vực cần xử lý.
Khi các đốt sống không bình thường, ta thường gặp các hình thái biến đổi sau đây:
- Đốt sống đơn lồi (một đốt sống lồi cao hơn bình thường khi nhìn nghiêng)
- Đốt sống liên lồi (có từ hai đốt sống liền nhau lồi cao hơn bình thường)
- Đốt sống đơn lệch (có một đốt sống lệch sang một bên khi nhìn thẳng)
- Đốt sống liên lệch (có từ hai đốt sống liền nhau lệch sang một bên)
- Đốt sống đơn lồi lệch (có một đốt sống lồi và lệch sang 1 bên)
- Đốt sống liên lồi lệch (có từ hai đốt sống lồi và lệch sang 1 bên)
- Đốt sống đơn lõm (có một đốt sống lõm xuống khi nhìn nghiêng )
- Đốt sống liên lõm (có từ hai đốt sống liền nhau lõm xuống khi nhìn nghiêng)
III. Đặc tính của đốt sống không bình thường:
Các đốt sống khổng bình thường còn gọi là các đốt sống bệnh lý có thể phục hồi được qua thao tác điều trị.
Theo kinh nghiệm của phương pháp Tác động cột sống Việt Nam các hình thái đốt sống bệnh lý như lồi, lệch, lõm v.v. .Nếu rối loạn ít có thể phục hồi ngay qua một lần điều trị, nếu rối loạn lớn hơn có thể phục hồi dần dần trong quá trình điều trị.
Khi đã gọi là đốt sống bệnh lý, thì dù ở hình thái nào (lồi, lệch, hay lõm) bao giờ cũng có hiện tượng dính cứng ở một hay nhiều đốt sống. Có trường hợp đốt sống chỉ dính ở phần trên, hay góc trên với đốt sống trên (hình thái đơn lệch trên hay dưới), lại có trường hợp đốt sống bệnh dính cả phần trên với đốt sống trên và phần dưới với đốt sống dưới ( hình thái lệch cân toàn phần)
Dựa vào hình thái của đốt sống và đặc tính này để người thầy thuốc đề ra phương hướng điều trị thích hợp
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !
thuylt Đã gửi: 09/07/2017 lúc 10:57:27(UTC)
 
PHẦN MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG CỘT SỐNG

I - Nguồn gốc của phương pháp TĐCS.
Phương pháp Tác động cột sống là phương pháp chữa bệnh do cố lương y Nguyễn Tham Tán nghiên cứu sáng lập và phát triển.
Cụ sinh ngày 28/2/1915 (Tức ngày 15 tháng giêng năm Át Mão) tại xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Cụ mất ngày 22 tháng 3 năm Canh Thìn (tức ngày 26/04/2000).
Xuất thân trong một gia đình có nghề gia truyền chữa bệnh bằng thuốc nam, Cụ rất say mê tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm trong dân gian để tìm ra những bài thuốc hay, những phương thức trị bệnh có hiệu quả nhằm giúp đỡ cho bà con trong thôn xóm khi ốm đau được chữa bệnh tại nhà và bằng cây nhà lá vườn, ít tốn kém tiền của mà khỏi được bệnh. Đó là niềm mơ ước của cụ lúc sinh thời.
Ở những vùng quê thời bấy giờ, khi ốm đau người ta thường dùng đồng bạc thật để đánh gió dọc theo hai bên cột sống chữa một số bệnh như: Cảm mạo, trúng gió, đau lưng, đau đầu ...
Qua quan sát bằng mắt thường Cụ đã nhìn thấy trên những vùng vừa mới đánh gió ấy xuất hiện những thay đổi tại chỗ như những nốt đỏ, đám sần đỏ, cơ lưng co cứng lên, lấy đầu ngón tay day, bấm vào những điểm ấy thì người bệnh cảm thấy dễ chịu và một số bệnh nhân khỏi bệnh vài ngày sau đó.
Từ thực tiễn qua hơn 50 năm chữa trị cho rất nhiều người bệnh bằng cách trên cộng với sự tham khảo trên sách vở về giải phẫu và sinh lý con người của y học hiện đại, về thuyết âm dương ngũ hành của y học cố truyền, Cụ đã đúc kết và rút ra nhiều kinh nghiệm. Cụ cảm nhận sự biến đổi ở cột sống có liên quan đến nhiều loại bệnh thuộc các hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, thần kinh, nội tiết và hệ cơ xương khớp qua 4 đặc trưng. Khái niệm về hệ cột sống biến đổi đều có nguồn gốc trong từng tiết đoạn thần kinh xuất phát từ tủy sống bị rối loạn mà ra.
Phương pháp Tác động cột sống là gì ?
Tác động cột sống chữa bệnh là một phương pháp mang nội dung duy trì sự cân bàng hệ cột sống có sự điều chỉnh của cơ thể, nhằm phục hồi sự cân bằng của cột sống để phòng bệnh và trị bệnh. Một phương thức chữa bệnh không dùng thuôc, ở một sô trường hợp cụ thê có dùng đến cao dán ngoài với tác dụng hỗ trợ.
Hình thức của phương pháp Tác động cột sống trị bệnh là tác động cơ học bằng phần mềm ở đầu ngón tay lên hệ cột sống. Để chẩn bệnh bằng các thủ thuật: Áp, Vuốt, Ấn, Vê cùng các phương thức : Co cơ tương ứng, Động hình, Điều nhiệt và chuyển tư thế.
Để trị bệnh, phương pháp dùng các thủ thuật: Đẩy, Xoay, Bật, Rung, Bỉ, Lách cùng các phương thức : Tạo sống cảm giác, Nén, Đơn chỉnh, song chỉnh và Vi chỉnh.
Ngay cả trong phòng bệnh, phương pháp Tác động cột sống áp dụng vẫn có tác dụng rất tốt. Tuy nhiên trong một số trường họp người bệnh đã được điều trị tại nhiều nơi, qua nhiều phương pháp mà kết quả hạn chế hoặc không khỏi có nghĩa là đã vượt quá khả năng tự điều chỉnh của cơ thể, trong những trường họp ấy cần phải được hỗ trợ kết hợp bằng các thuốc tây y, đông y cùng thời gian chữa trị phải kiên trì dài ngày hoặc phải chuyển hướng điều trị.
Phương pháp Tác động cột sống có phải là bấm huyệt không ?
Dọc theo hai bên cột sống, trên đầu gai sống và hai bên rãnh sống mà phương pháp Tác động cột sống xác định là đều có những trọng điểm liên quan đến bệnh tật mà khi chữa bệnh người thầy thuốc cần phải tác động vào đó để giải tỏa nhằm đưa cột sống trở về trạng thái sinh lý ban đầu. Cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên vì dọc hai bên cột sống cách đường gai sống ra hai bên, mỗi bên 1,5 tấc (thốn) có Bàng quang kinh chạy dọc theo cho nên khi chữa một số điểm có trùng với huyệt của đường kinh đó. Nhưng phương pháp Tác động cột sống tuân theo những Nguyên tắc, Phương thức và Thủ thuật riêng của mình khác hoàn toàn với Bâm huyệt để thăm khám và điều trị.
Vì vậy: Phương pháp Tác động cột sống không phải là Bấm huyệt
II. Phương phápTác động cột sống chữa được những bệnh gì ?
Trải qua hơn 50 năm nghiên cứu và vận dụng, lương y Nguyễn Tham Tán, Ông tổ của phương pháp Tác động cột sống Việt Nam đã chữa thành công cho rất nhiều người với gần 500 chứng bệnh khác nhau thuộc các hệ :
- Bệnh về hệ thần kinh.
- Bệnh về hệ vận động (Cơ, xương, khớp)
- Bệnh về hệ tuần hoàn
- Bệnh về hệ hô hấp
- Bệnh về hệ tiêu hóa
- Bệnh về hệ bài tiết
- Bệnh về hệ nội tiết
- Hệ sinh dục
- Bệnh về một số triệu chứng khác chưa rõ nguyên nhân.
Lưu ý: Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam không áp dụng để chữa các bệnh về nhiễm trùng, do vi rút gây ra hay tai nạn gãy xương, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam cũng hạn chế đối với các bệnh với các trường hợp loãng xương, lao xương, ung thư xương. Đối với người đang điều trị bằng châm cứu không nên tiến hành chữa bằng phương pháp này.
Trong thời gian điều trị bằng phương pháp Tác động cột sống Việt Nam, người bệnh không được ăn Tôm, thịt Bò, tắm đêm bằng nước lạnh hoặc tắm xong ngồi trước gió quạt xối thẳng vào đầu hay cổ, gáy.
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam là một phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc mà dùng phần mềm của đầu ngón tay tác động lên cột sống một lực thích hợp theo hướng trục và hướng tâm cột sống.
III - Đặc điểm của phương pháp Tác động cột sống Việt Nam
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam là một phương pháp chữa bệnh hoàn chỉnh, trong đó vừa khám bệnh, vừa chữa bệnh vừa tiên lượng bệnh cùng một lúc
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam không công thức hóa bệnh học mà có các nguyên tắc, các phương thức và các thủ thuật để xác định trọng điểm đồng thời để trị bệnh và tiên lượng bệnh
Ai nắm vững cột sống, người đó nắm vững sinh mệnh con người !

Powered by YAF.NET 2.2.3 | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 1.055 giây.