PHẦN IV
CÁC NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG THỨC VÀ THỦ THUẬT TRỊ BỆNH
A. CÁC NGUYÊN TẮC TRỊ BỆNH
I - NGUYÊN TÁC TẠO SÓNG CẢM GIÁC:
Cảm giác là một trong bốn đặc trưng của trọng điểm tại đốt sống biến đổi. Phương pháp Tác động cột sống Việt nam chia cảm giác thành 2 hệ: Hệ khách quan và hệ chủ quan.
Hệ khách quan: Là cảm giác đau khu trú ở trên các đốt sống bị biến đổi nhưng chỉ khi nào có tác động khách quan tại các đốt sống đó thì người bệnh mới thấy có cảm giác đau, ngoài ra người bệnh không tự nhận thấy đau.
Hệ chủ quan: Là cảm giác đau mà người bệnh tự nhận thấy như cơ thể mệt mỏi, tinh thần bạc nhược, cảm giác đau đớn, nhức buốt, tẽ bì, nóng lạnh hoặc cảm giác mơ hồ khác. Các cảm giác này người bệnh tự nhận thấy có trên toàn bộ cơ thể hoặc khu trú tại một vùng nhất định nào đó.
Ví dụ : Bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng do thoái hoá cột sống thắt lưng, vôi hoá, gai đôi, thoát vị đĩa đệm thì cảm giác đau này là cảm giác đau chủ quan do bệnh ở cột sống, tự bệnh nhân nhận thấy được cảm giác đau này.
Nếu bệnh nhân bị đau ở cánh tay và cổ tay mà vùng ngực trái nóng cao, khi đó ta dùng thủ thuật tác động vào đốt sống T3 và T4 thì bệnh nhân sẽ thấy đau ở điểm tác động. Cảm giác đau ở cánh tay và cổ tay là cảm giác đau chủ quan, cảm giác đau ở hai đốt sống T3 và T4 là cảm giác đau khách quan.
Trong quá trình nghiên cứu về mối liên quan của cảm giác đau chủ quan và cảm giác đau khách quan chúng tôi nhận thấy : Cảm giác đau chủ quan là cảm giác đau xuất phát từ ổ bệnh. Cảm giác đau khách quan là cảm giác đau ở điểm đau tương ứng với cảm giác đau ở 0 bệnh. Khi thao tác tại điểm đau khách quan thì cảm giác đau ổ bệnh sẽ giảm dần rồi hết hẳn.
Đặc tính cảm giác đau tại trọng điểm: Cảm giác đau tại trọng điểm nếu được tác động thì ở điểm đó cảm giác đau sẽ từ đau nhất đến giảm đau rồi hết đau hoàn toàn.
Cảm giác đau với phản ứng co cơ :
Có cảm giác đau ở trọng điểm cho thấy nếu một khi được tác động tới ( lúc đó bệnh nhân thấy đau đo tác động ) thì liền có sự phản ứng của gân cơ gây co. Khi ngừng tác động thì gân cơ buông trùng lại. Nếu tác động mau thì gân cơ co và trùng mau, tác động thưa thì gân cơ co và trùng thưa.
Khi chưa tác động vào trọng điểm, bệnh nhân chưa thấy đau. Khi tác động vào trọng điểm tức là ta tác động vào những sợi cơ xơ co nhỏ như sợi tóc (đối với những bệnh nội tạng) cho đến những sợi cơ to như chiếc đũa (đối với bệnh về chức năng vận động) sẽ làm cho những sợi này căng ra và gây nên cảm giác đau tại trọng điểm; Khi đó cơ thể liền có sự tự điều chỉnh bằng cách buông trùng gân cơ của những sợi cơ co đó lại; và cứ sau mỗi nhịp co trùng như vậy, những sợi cơ co tại trọng điểm sẽ trùng ra và cảm giác đau tại trọng điểm sẽ giảm dần rồi hết hẳn.
Phương pháp Tác động cột sống Việt nam đã lấy cảm giác đau tại trọng điểm để gây sự phản ứng của gân cơ co trùng sen kẽ nhịp nhàng thành lớp lớp sóng thích họp nhất giải tỏa ổ rối loạn trên hệ cột sống, phục hồi lại sự cân bằng của cơ thể. Từ đó hình thành tên gọi Sóng cảm giác.
Sự phản ứng của cơ thể khi tác động điều trị.
Trong khi tác động trên cột sống để trị bệnh, tạo cảm giác đau tại trọng điểm, bao giờ trên cơ thể người bệnh cũng có những phản ứng nhất định chia thành 2 loại: Phản ứng dương tính và phản ứng âm tính.
Phản ứng dương tính có các thể:
Thể phản ứng dương tính toàn thân : Là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co giật toàn thân, gân cơ cứng lại, khi không tác động thì gân cơ trùng lại.
Thể phản ứng dương tính cục bộ: Là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co giật gân cơ từ vùng trọng điểm lan toả sang tới các khu vực nhất định, khi ngừng tác động thì gân cơ trùng lại.
Thể phản ứng dương tính hệ cột sống : Là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co lồi ở trên hệ cột sống, khi ngừng tác động thì gân cõ trùng lại (thích họp với bệnh ở trên ðốt sống lõm).
Thể phản ứng dương tính ở trên trọng điểm: Là khi tác động ở trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co cơ máy động ở trọng điểm. Khi ngừng tác động thì lớp cơ co ở trọng điểm cũng ngừng máy động ( thích hợp với các đốt sống lệch).
Phản ứng âm tính có các thể:
Thể phản ứng hệ cột sống : Là khi tác động tại trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co oằn cột sống, tại cột sống không có hiện tượng máy động. Khi ngừng tác động thì sự phản ứng cũng ngừng lại.
Khi điều trị gặp phản ứng này là biểu hiện sự điều trị gần đến ngưỡng, gần giải toả hết ổ rối loạn, thầy thuốc phải nhanh chóng tác động tiếp để giải tỏa 0 bệnh, không được bỏ lỡ cơ hội.
Thể phản ứng âm tính tại trọng điểm : Là khi tác động tại trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co lõm tại trọng điểm, không có sự lan tỏa.Trường hợp này thích hợp với đốt sống lồi.
II. NGUYỀN TẮC ĐỊNH LỰC
Định lực thao tác là sự quy định lực mạnh của thầy thuốc được phép dồn vào đầu ngón tay để thao tác trị bệnh. Sức mạnh này từ nhẹ nhất đến mạnh nhất được quy định như sau:
1/ Sức mạnh của một ngón tay : ứng dụng cho các trọng điểm khu trú trại vùng cổ từ C1 đến C7 và vùng cụt.
Hình thức của thủ thuật thao tác: Đặt nghiên bàn tay trên lưng người bệnh, ngón tay út và ngón tay thứ tư co vào lòng bàn tay, dùng ngón tay giữa thao tác tại trọng điểm. Tuỳ theo loại thể rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất đến mạnh nhất của ngón tay.
2/ Sức mạnh của một bàn tay : ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng lưng trên từ TI đến T7.
Hình thức của thủ thuật thao tác: Đặt úp lòng bàn tay trên lưng người bệnh, dùng dận bàn tay làm điểm tỳ, lấy ngón tay giữa hoặc ngón cái tác động tại trọng điểm, tuỳ theo thể loại rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất của một ngón tay cho đến lực tối đa của bàn tay.
3/ Sức mạnh của một cánh tay co, ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng giữa lưng từ T8 đến TI2.
Hình thức thao tác: Co cánh tay thành góc thước thợ (xấp xỉ 90°). Cánh tay khép sát thân mình, dùng ngón tay cái hay ngón tay giữa thao tác tại trọng điểm. Tuỳ theo thể loại rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất bằng lực của một ngón
tay và mạnh nhất bằng lực của cánh tay co .
4/ Sức mạnh của cánh tay thẳng: ứng dụng cho cả vùng thắt lưng L1 đến L5.
Hình thức thao tác : Duỗi thẳng cánh tay, dùng ngón tay thao tại trọng điểm. Tuỳ theo thể và loại rối loạn mà dùng bằng lực nhẹ nhất của một ngón tay và mạnh nhất bằng lực của cả cánh tay.
5/ Sức mạnh của toàn thân thầy thuốc: ứng dụng cho các khu trú tại vùng hông từ S1 đến S5.
Hình thức thao tác: Duỗi thẳng cánh tay, dồn toàn bộ lực của thầy thuốc vào dận bàn tay để thao tác tại trọng điểm. Tuỳ theo loại và thể rối loạn mà dùng lực nhẹ của một ngón tay cho đến mạnh nhất là lực của toàn thân thầy thuốc.
Các trường họp ngoại lệ:
- Loại mỏng, mềm, thể ngoài thì bất cứ ở khu vực nào trên cột sống cũng chỉ áp dụng bằng lực của một ngón tay tác động nhẹ nhàng.
- Loại xơ cứng bất cứ ở thể nào và khu trú ở khu vực nào trên cột sống cũng chỉ áp dụng bàng lực cánh tay co.
- Loại co cứng, dầy, thể ngoài, ngón tay không ấn tới đầu gai sống được thì phải đắp cua đồng (cua dùng nấu canh) cho giãn cơ rồi mới dùng lực thao tác.
III. NGUYÊN TẮC ĐỊNH HƯỚNG
Khi tác động trị bệnh phải có một hướng nhất định. Phương pháp Tác động cột sống căn cứ vào trục cột sống làm chỗ dựa để tìm tòi các thủ thuật thích họp, đồng thời dùng trục cột sống làm cơ sở để hướng mọi kích thích như gân, cơ, đốt sống trở lại cân bằng.
Trục theo phương pháp Tác động cột sống quan niệm là ống tuỷ sống. Các hiện tượng co cơ, các biến đổi hình thái của đốt sống, các rối loạn về nhiệt độ và cảm giác ở trên cột sống đều lấy trục nói trên làm đường đối xứng để so sánh giữa hai bên.
Để ứng dụng cho các hướng thích hợp với các thể và loại rối loạn cụ thể, phương pháp tác động đã quy định như sau:
1/ Đốt sống lồi tác động theo hướng thẳng từ ngoài vào trong.
2/ Lồi phần trên, dưới khuyết: tác động theo hướng từ trên xuống. Ngược lại nếu lồi phần dưới, phần trên khuyết thì tác động theo hướng từ dưới lên.
3/ Phần trên lồi dưới không khuyết hoặc dưới lồi trên không khuyết thì tác động theo hướng thẳng từ ngoài vào trong.
4/ Đốt sống lồi lệch một phần (trên .hoặc dưới) hay lồi lệch cả đốt :Tác động theo hướng chếch 45° từ ngoài vào trong và lực đẩy từ phía lồi lệch sang phía khuyết.
5/ Đốt sống lệch (lệch trên, lệch dưới hay lệch cả đốt) tác động theo hướng đưa ngang từ ngoài vào.
6/ Đốt sống lệch lõm (một phần hay cả đốt) tác động theo hướng lực đưa ngang từ ngoài vào rồi đưa tiếp từ trong ra theo hướng cuộn tròn (thủ thuận bỉ).
7/ Đốt sống lõm: Tác động song chỉnh bằng thủ thuật Bỉ ở cả hai bên cùng một lực.
IV: NGUYỀN TÂC ĐỊNH LƯỢNG
Nguyên tắc định lượng là một quy định về lượng tác động tính theo thời gian dài hay ngắn.
Thời gian tác động tại trọng điểm có tính quyết định về thời gian tác động đáp ứng đúng với mức tiếp nhận của cơ thể người bệnh thì hiệu quả cao, chưa đúng với mức tiếp nhận thì hiệu quả thấp, hoặc quá mức tiếp nhận thì cơ thể có sự phản ứng ngược lại, mà những kết quả điều trị ban đầu lại mất hết. Chính vì vậy, phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định thời gian thao tác cho từng buổi chữa và thời gian cho quá trình điều trị là một nguyên tắc của phương pháp.
a/ Thời gian thao tác
Thời gian thao tác là một quy định cho thầy thuốc có tác động tại trọng điểm dài hay ngắn. Thời gian cho một lần điều trị dày hay ngắn không xuất phát từ sự áp đặt chủ quan tuỳ tiện của thầy thuốc mà phải căn cứ vào sự phản ứng của cơ thể người bệnh để ứng dụng cho thích hợp. Sự phản ứng đó biểu hiện bằng hiện tượng khô se của mặt da chuyển sang ẩm, ướt tại trọng điểm mà người thầy thuốc có thể nhận biết ngay dưới đầu ngón tay . Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định mức độ này là ngưỡng thao tác.
Trong khi tác động phải chú ý theo dõi:
1/ Khi trọng điểm còn khô se là thời gian tác động chưa đúng yêu cầu, chưa đến ngưỡng thao tác, nếu dừng thì hiệu quả không cao.
2/ Khi trọng điểm đã ẩm ướt là hiệu quả tác động đã cao nhất và đến ngưỡng thao tác, đúng mức độ tiếp thu của cơ thể người bệnh. Vì vậy, cần ngừng ngay thao tác.
3/ Khi mặt da tại trọng điểm đã chuyển sang ẩm ướt mà vẫn tiếp tục thao tác là quá ngưỡng, quá mức tiếp nhận của cơ thể tạo nên một phản xạ ngược lại do bị kích thích quá mức, mà những kết quả ban đầu bị xoá hết, việc điều trị trở nên không có hiệu quả.
Ví dụ: về điều trị bệnh huyết áp cao.
1/ Khi thao tác mà trọng điểm chưa ẩm ướt, huyết áp cũng có thể xuống, nếu ngừng thao tác hiệu quả không cao và tác dụng không lâu dài.
2/ Ngừng thao tác lúc trọng điểm đã ẩm ướt là đúng mức tiếp nhận của người bệnh thao tác đã đến ngưỡng. Huyết áp giảm xuống và hiệu qủa điều trị kéo dài.
3/ Khi trọng điểm đã ẩm ướt mà vẫn thao tác tiếp thì huyết áp không những không xuống thêm nữa mà còn trở lại trạng thái ban đầu và còn có thể tăng cao hơn.
Trong khi điều trị, thầy thuốc cần tập trung cao độ theo dõi về sự phản ứng của cơ thể người bệnh vì dễ bị lầm lẫn ngưỡng thao tác. Chẳng hạn như trường họp ổ rối loạn quá lớn, thầy thuốc muốn tập trung thao tác để giải toả tức thời ở rối loạn nên thường bị quá ngưỡng. Khi gặp những trường họp ổ rối loạn quá lớn này, thầy thuốc cần xác định rằng mặc dù còn rối loạn lớn, nhưng khi trọng điểm đã ẩm ướt (đến ngưỡng) thì phải ngừng thao tác để tránh phản ứng ngược lại của cơ thể người bệnh.
Cơ thể có khả năng tự điều chỉnh để giải toả ổ bệnh và chỉ tiếp thu đến mức nhất định t rong từng lần điều trị. Ngưỡng thao tác này có thể rất khác nhau, có lần cơ thể bệnh nhân tiếp nhận thao tác được 30 phút nhưng có lần chỉ 2 phút đã đến ngưỡng.
b/ Thời gian của quá trình điều trị
Trong phần A của nguyên tắc định lượng đã trình bày về thời gian cho một lần điều trị, phần B này là quy định về thời gian cho cả quá trình điều trị của bệnh nhân.
Đặc điểm và hình thái của trọng điểm bao giờ cũng biểu hiện trên lớp cơ đệm bị xơ co, tạo nên sự dính cứng giữa các khe đốt, làm méo ống sống, chèn ép vào dây thần kinh gai sống (cần tránh hiểu lầm là sự dính cứng đĩa đệm giữa các thân đốt sống). Có trường họp chỉ tác động một lần thì các đốt sống đã chuyển động. Có trường họp phải tác động nhiều lần thì các ðốt sống bị dính cứng mới chuyển ðộng.
* Sự chuyển động của các đốt sống bị dính cứng là cơ sở để kết thúc thời gian của quá trình điều trị,
Khi tác động bằng các thủ thuật thuộc phương thức sóng mà đốt sống đã chuyển động thì phải ngừng điều trị nhưng khi tác động bằng thủ thuật đẩy thuộc phương thức nén mà đốt sống đã chuyển động thì phải tiếp tục áp dụng các thủ thuật thuộc phương thức sóng để tiếp tục điều trị cho đến khi đốt sống trở lại trạng thái bình thường thì mới hoàn thành quá trình điều trị.
Chú ý:
1/ Khi điều trị mà các khe đốt của trọng điểm còn dính cứng là chưa giải toả được ổ bệnh, cần tiếp tục điều trị mặc dầu triệu chứng cơ năng đã hết. Lúc này nếu ngừng điều trị thì bệnh có khả năng tái phát.
2/ Khi các khe đốt của trọng điểm bị dính cứng đã chuyển động bình thường mặc dù các triệu chứng cơ năng chưa hết thì thôi điều trị vì một thời gian sau các triệu chứng cơ năng cũng dần dần tan biết do khả năng tự điều chỉnh của cơ thể.
3/ Khi các khe đốt của trọng điểm động, đốt sống đã trở lại trạng thái bình thường mà vẫn tiếp tục điều trị thì sự dính cứng sẽ trở lại, các triệu
chứng cơ năng có lúc lại xuất hiện, bệnh sẽ dây dưa không dứt hẳn.
IV. NGUYÊN TẢC ĐIÈU NHIỆT
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định sự biến đổi nhiệt độ da trên cơ thể người bệnh là cơ sở để khám bệnh, chữa bệnh và phòng bệnh. Do đó việc điều hoà nhiệt độ da trên cơ thê người bệnh được quy định thành một nguyên tắc trong khi thăm dò, tiên lượng và theo dõi sự tiến triển của bệnh.
Sau đây là một số đặc điểm về điều nhiệt trên cơ thể người:
1/ Các vùng trên cơ thể người bệnh có nhiệt độ da thay đổi quá cao hay quá thấp đều biến chuyển chỉ trong 20 giây khi thầy thuốc áp dụng thủ thuật thăm dò hoặc tác động chữa bệnh tại trọng điểm.
2/ Nhiệt độ da thay đổi thuận chiều nghĩa là nếu vùng đó có nhiệt độ quá cao sẽ giảm xuống, quá thấp thì sẽ nóng lên. Sự thay đổi này có thế nhận biết qua cảm giác bàn tay của thầy thuốc hoặc dùng máy đo nhiệt độ da.
3/ Nếu gặp trường hợp thao tác mà nhiệt độ da không thay đổi thì có thể do một trong những nguyên nhân sau:
a/ Tác động chưa đúng trọng điểm.
b/ Thao tác chưa đúng thủ thuật
c/ Chưa tuân thủ đúng các nguyên tắc đã quy định
d/ Do cơ thể người bệnh vì một nguyên nhân nào đó không còn thích nghi được với tác động cột sống nữa (có thể quá suy nhược không còn khả năng tự điều chỉnh hay bị nhiễm độc...)
Vì vậy, trong khi thao tác trị bệnh, người thầy thuốc phải luôn luôn thăm dò nhiệt độ tại vùng tương ứng và tự kiểm tra thao tác trị bệnh
Chú ý: Từ những đặc điểm trên Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam quy định: Khi tác động mà không điều hoà được nhiệt độ thì tuyệt đối không được thao tác nữa.
4/ Trong quá trình điều trị, nhiệt độ da của vùng quá cao hoặc quá thấp, đều tiến triển theo chiều thuận trong cả quá trình điều trị, ngày một tốt lên. Nhưng cũng có trường họp nhiệt độ chỉ thay đổi ngay khi thao tác hoặc tác dụng chỉ kéo dài thêm một vài tiếng đồng hồ. Những trường họp này có thể do:
a/ Người bệnh chưa nhận được một liều lượng tác động thích hợp, có thể thời gian còn quá ít hoặc cũng có thể do thủ thuật thiếu chính xác, chưa đúng với quy định của phương pháp.
b/ Cũng có trường hợp nhiệt độ thay đổi thuận chiều nhưng chưa trở lại bình thường, dừng lại ở trạng thái bệnh lý trong một thời gian dài. Trường hợp này phần lớn do có điểm đối động ngoài phạm vi cột sống có liên quan tới trọng điểm chưa được giải toả.
Phương pháp Tác động cột sống Việt Nam căn cứ vào đặc điểm trên đây mà đề ra căn cứ chủ yếu để theo dõi sự tiến triển của bệnh (sự thuyên giảm bệnh) là sự thay đổi của nhiệt độ da, con các triệu chứng cơ năng chỉ là phối họp đánh giá mà thôi.
B- CÁC PHƯƠNG THỨC TRỊ BỆNH
Phương thức là những cách thức, biện pháp để giải toả trọng điểm, lập lại sự cân bằng của cột sống. Các phương thức trị bệnh gồm có:
1/ Phương thức Nén
2/ Phương thức Sóng
3/ Phương thửc đơn chỉnh và song chỉnh
4/ Phương thức Vi chỉnh
I. PHƯƠNG THỨC NÉN
Nén là một phương thức trị bệnh gồm nhiều hình thức khác nhau. Mục đích của phương thức là làm cho các đốt sống bị dính cứng chuyển động được theo yêu cầu của thầy thuốc và chỉ áp dụng phương thức này đối với các đốt sống bị dính cứng.
Phương thức nén gồm nhiều tư thế tạo cho cột sống người bệnh yên tĩnh để tác động có hiệu quả.
Các phương thức nén gồm:
1. Phương thức Nén kéo 2. Phương thức Nén nâng
3. Phương thức Nén vít 4. Phương thức Nén tinh
Mỗi phương thức Nén nhằm giải quyết một yêu cầu riêng theo vị trí khu trú của trọng điểm tại các khu vực trên cột sống.
Phương thức nếu không có giá trị triệt đế trong việc giải toả hình thái trọng điểm để trị bệnh. Vì phương thức Nén chỉ mới giải toả được các hình thái của các đốt sống bị dính cứng mà không có khả năng giải toả được các hình thức của lớp cơ đệm. Do đó sau khi đã áp dụng phương thức Nén lại phải triệt để và khi đó bệnh mới khỏi hẳn.
II. PHƯƠNG THỨC SÓNG
Phương thức sóng là một phương thức trị bệnh nhằm mục đích giải toả lớp cơ bệnh lý tại trọng điểm ở trên đầu gai sống, ở khe đốt và cạnh đốt sống bằng các thủ thuật thích hợp nhằm tạo cho trọng điểm có một cảm giác đau với khoảng cách đều đặn tạo thành sóng cảm giác giúp cơ thể tự điều chỉnh, tự lập lại cân bằng. Tuỳ theo hình thái của trọng điểm và vị trí của trọng điểm ở các vùng khác nhau mà có các tư thế điều trị thích hợp.
III. PHƯƠNG THỨC ĐƠN CHỈNH VÀ SONG CHỈNH
Định nghĩa :
- Phương thức đơn chỉnh là một phương thức trị bệnh trong đó áp dụng thủ thưật bằng một tay, tác động tại trọng điểm ở thể hẹp
- Phương thức song chỉnh là một phương thức trị bệnh trong đó áp dụng thủ thuật bằng hai tay cùng một lúc, một tay tác động tại trọng điểm, một tay tác động tại điểm đối động tức là điểm liên quan tương ứng với trọng điểm khi trọng điểm ở thể rộng hoặc thể lớn
Trong trường hợp có điểm đối động mà chỉ áp dụng phương thức đơn chỉnh thì kết quả điều trị sẽ rất hạn chế và sẽ có những biểu hiện sau:
1/ Tác động lâu tại trọng điểm mà chưa giải toả được, gây cho trọng điểm bị sưng, dầy cồm.
2/ Các triệu chứng chủ quan của người bệnh có đỡ nhưng không khỏi hẳn, nếu ngưng chữa lại tái phát.
3/ Thời gian điều trị kéo dài, bệnh tật dây dưa.
IV. PHƯƠNG THỨC VI CHỈNH
Vi chỉnh là một phương thức trị bệnh dùng thủ thuật nghiêng đầu ngón tay, dùng một phần của đầu ngón tay tác động tại một điểm trên đầu gai sống. Trên đầu gai sống có các vị trí, phía trên, ở giữa, phía dưới đầu gai. Trọng tâm có thể ở phía trên, ở giữa hay phía dưới đầu gai, có thể ở bên trái hay bên phải hoặc chính giữa đầu gai sống
Vi chỉnh chỉ áp dụng khi trọng điểm ở thể hẹp hoặc khi điều trị cho người bệnh các triệu chứng cơ năng đã hết nhưng ổ rối loại trên đối sống chưa hết (lớp cơ bệnh lý chưa hểt). Vì nếu không điều trị tiếp bằng Vi chỉnh thì một thời gian sau bệnh dễ tái phát lại.
Khi áp dụng phương thức Vi chỉnh cần lưu ý:
- Chỉ dùng lực tối thiểu của một ngón tay, cong ngón tay lên
- Tác động theo hướng trục từ ngoài vào trong
- Tốc độ mau tối đa như khi áp dụng thủ thuật Rung
- Cảm giác của người bệnh: Đau như ngứa, dễ chịu
- Điều nhiệt: vẫn theo quy định chung
- Thời gian áp dụng Vi chỉnh: vẫn theo quy định về ngưỡng tác dụng
TÓM LẠI
- Phương thức Vi chỉnh là một phương thức trị bệnh chỉ dùng một phần của đầu ngón tay tác động lên trọng điểm ở thể hẹp
- Phương thức Vi chỉnh cổ tác dụng chữa dứt bệnh cho người bệnh
- Phương thức Vi chỉnh có tác dụng tốt để phục hồi cột sống bị mất đường cong sinh lý hoặc các đốt sống bị sole phải, áp dụng phương thức chuyển tư thế để xác định trọng điểm.
- Ngoài những quy định chung khi áp dụng phương thức Vi chỉnh còn có những điểm cần phải chú ý như đã nêu ở trên.
C. CÁC THỦ THUẬT TRỊ BỆNH
Các thủ thuật trị bệnh gồm có: Thủ thuật Đẩy, thủ thuật Xoay, Thủ thuật Bật, Thủ thuật Rung, Thủ thuật Bỉ, Thủ thuật Lách,
I. THỦ THUẬT ĐẢY
a. Khái niệm và mục đích: Thủ thuật Đẩy là một thủ thuật trị bệnh dùng kết hợp phương thức nén với các đốt sống lồi, lồi lệch, lệch bị dính cứng cùng với thủ thuật xoay và Bỉ trong phương thức sóng để giải toả lớp cơ cho đốt sống bị dính cứng chuyển động được theo yêu cầu của thầy thuốc.
b. Hình thửc: Theo nguyên tắc định lực cho 5 vùng đã quy định thao tác theo vị trí khu trú của trọng điểm mà ứng dụng lực của một ngón tay hay 2 ngón tay cái hay của dậm bàn tay đặt tĩnh tại trọng điểm đế thao tác với lực tác động từ nhẹ đến nặng. Dù cho đốt sống bị dính cứng nhiều cũng không được dùng quá lực đã quy định.
c. Thao tác: Khi thao tác chú ý đẩy từ ngoài vào trong theo hướng trục. Tuỳ theo vị trí khu trú của trọng điểm mà chọn tư thế thích hợp cho bệnh nhân các tư thế nàyđều tạo cho gân cơ của người bệnh buông trùng gân cơ thích hợp cho việc tiếp nhận lực thao tác .
d. Thủ thuật: ứng dụng thủ thuật đẩy trong phương thức nén phối hợp với thủ thuật xoay, bỉ, rung, lách trong phương thức sóng để tạo cho một trọng điểm có một sóng cảm giác thích hợp nhất để cơ thể tự điều chỉnh.
e. Giới hạn: Không được dùng thủ thuật để đẩy cho vùng cổ (C1 đến C7) và vùng cụt mà chỉ được phối hợp với thủ thuật xoay và bỉ với một lực thích hợp.
II. THỦ THUẬT XOAY
a. Khái niệm và mục đích: Thủ thuật xoay là một trong những thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng được quy định ứng dụng cụ thể với những loại trọng điểm có hình thức đốt sống lồi, lồi lệch, lệch và hình thái lớp cơ co dầy, co mỏng, mềm dầy, mềm mỏng.
Mục đích của thủ thuật xoay: Là dùng lực tác động tạo cho người bệnh có một cảm giác đau thích họp tại trọng điểm nghĩa là lúc đầu đau nhiều rồi đau vừa cuối cùng hết đau để cơ thể người bệnh tự điều chỉnh, phục hồi lại sự cân bằng của cột sống để khỏi bệnh.
b. Hình thức: Dùng phần mềm của ngón tay cái, ngón tay trỏ hay ngón giữa đặt tĩnh tai trọng điểm để thao tác bằng một lực thích họp và theo hướng như sau:
1/ Xoay vòng tròn ở trên lớp cơ bệnh lý theo chiều kim đồng hồ với những trường họp trọng điểm khu trú ở phần dưới đầu gai sống lệch trái với phần vai sống lệch trái.
2/ Xoay vòng tròn trên lớp cơ bệnh lý ngược với chiều kim đồng hồ đối với những trường họp trọng điểm khu trú ở phần dưới đầu gai sống lệch trái với phần trên đầu gai lệch phải.
3/ Xoay vòng tròn trên lớp cơ bệnh lý không quy định chiều xoay đối với những trường họp trọng điểm khu trú ở đầu gai sống không phân biệt phần trên hay phần dưới.
c. Thao tác
1/ Thao tác ở một diện hẹp đối với những trọng điểm ở thể hẹp
2/ Thao tác ở một diện rộng đối với những trọng điểm ở diện rộng hoặc lớn
3/ Thao tác dùng một lực nhẹ đối với những trọng điểm khu trú ở lớp ngoài.
4/ Thao tác với một lực trung bình đối với những trọng điểm khu trú ở lớp cơ giữa .
5/ Thao tác với một lực nặng đối với những điểm khu trú ở lớp cơ trong
d. Thủ thuât
Khi dùng thủ thuật xoay thao tác trị bệnh cần phối họp với thủ thuật đẩy với lực từ tối thiểu đến tối đa theo quy định của nguyên tắc định lực và phối hợp với thủ thuật lách khi trọng điểm đã thay đổi.
e. Giới hạn
Thủ thuật xoay được áp dụng rộng rãi với tất cả khu vực khác nhau ở trên cột sống từ vùng cổ đến vùng xương cụt.
Thủ thuật xoay không có giá trị đối với những trường họp hình thái của trọng điểm di động như các loại xơ và sợi di động, loại không di động, dính cứng (phải đắp cua đồng)
g. Chú ý: Thủ thuật xoay là một thủ thuật chủ yếu để giải toả lớp cơ bệnh lý có hình thái co mềm, không di động
III.THỦ THUẬT BẬT
a. Khái niêm và muc đích: Thủ thuât bât là thủ thuât tri bênh theo phương thức sóng áp dụng, với những loại trọng điểm có hình thái lớp cơ bệnh lý xơ và sợi
- Mục đích của thủ thuật bật là dùng thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh một cảm giác đau nẩy người và đột ngột đối với những trường họp lớp cơ bệnh lý có hình thái sợi tròn, sợi dẹt.
b. Hình thức:
Hình thức thủ thuật bật là dùng phần mềm ở đầu ngón tay cái, ngón trỏ, ngón giữa hay cũng có thể là dùng nhiều ngón bật trượt trên sợi cơ bệnh lý bằng một lực.
c. Thao tác:
1/ Với những trường họp sợi bệnh lý thuộc thể và loại sợi tròn và dẹt, dù sợi bệnh lý nằm theo hướng dọc, ngang hay chéo thì người thầy thuốc dùng một ngón tay hoặc nhiều ngón tay bật trượt nhanh trên sợi cơ bệnh lý theo hướng cắt ngang.
2/ Trong trường hợp chỉ bật trượt nhẹ ta dùng một ngón tay bật theo hướng cắt ngang trên sợi cơ bệnh lý thể và loại sợi tròn hoặc dẹt.
Thủ thuật: Khi dùng thủ thuật bật cần phải phối họp với thủ thuật đẩy theo ắc quy định lực từ tối thiểu đến tối đa.
d. Giới hạn
1. Thủ thuật bật được áp dụng rộng rãi đối với các trọng điểm khu trú ở trên hệ cột sống từ vùng cổ đến xương cụt và phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc định lực.
2. Thủ thuật bật chỉ có giá trị với những thể loại xơ và sợi, không có giá trị đối với hình thái co cứng, co mềm.
IV.THỦ THUẬT RUNG
a. Khái niệm và mục đích: Thủ thuật rung là một thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng, ứng dụng cụ thể với những trọng điểm có hình thái thuộc loại mềm, mềm dày, mềm mỏng, co dầy, co mỏng.
Mục đích của thủ thuật này là dùng thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có một cảm giác thoải mái, dễ chịu.
b. Hình thức: Hình thức của thủ thuật rung là dùng phần mềm ở đầu\
ngón cái hoặc ngón giữa đặt tĩnh tại trọng điểm, bằng một lực thích
hợp rung trên bàn tay lắc qua, lắc lại liên tục, tạo cho ngọn tay thủ thuật có sự rung chuyển nhẹ nhàng tại đầu ngón tay đặt trên trọng điểm.
c. Thao tác:
1/ Rung mạnh tức là động tác bàn tay lắc ngang rộng, áp dụng đối với những trường hợp trọng điểm thuộc loại mềm mỏng và co mỏng.
2/ Rung nhẹ tức là động tác bàn tay lắc ngang hẹp đối với những trường họp thuộc loại mềm dầy và co dầy.
d. Thủ thuật: Khi thao tác trị bệnh bằng thủ thuật rung, bằng lực nhẹ hay lực mạnh cũng cần phải phối hợp với thủ thuật đẩy tức là vừa đẩy, vừa rung.
Thủ thuật rung được phối hợp thủ thuật lách khi trọng điểm đã thay đối mục đích để xác định trọng điểm mới.
Thủ thuật rung còn phối họp với thủ thuật bỉ và thủ thuật đẩy trong khi thao tác giải toả trọng điểm ở lớp cơ trong.
e. Giới hạn: Thủ thuật rung chỉ có giá trị để giải toả các hình thái trọng điểm loại mềm mỏng, mềm dầy, và co mỏng, co dầy.
Thủ thuật rung không có giá trị đối với loại cứng, xơ và sợi
Thủ thuật rung thích họp với những trường họp suy nhược chẳng hạn như suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể.
g. Tóm tắt.
Thủ thuật rung là một thủ thuật tạo cho người bệnh có một cảm giác dễ chịu, êm ái và ngọt ngào, được coi là một thủ thuật bổ.
Khi thao tác phải chọn tư thế thích họp với người bệnh và thầy thuốc, trọng điểm thuộc loại mềm mong.
V. THỦ THUẬT BỈ
a. Khái niệm và mục đích:Thủ thuật bỉ là một những thủ thuật trị bệnh theo phương thức sóng, ứng dụng cụ thể trong những trường hợp trọng điểm cư trú ở lớp cơ trong.
Mục đích của thủ thuật bỉ là khi thao tác trị bệnh tạo cho người bệnh có một cảm giác đau thích họp tại trọng điểm cư trú ở lớp cơ trong. Cảm giác đau thích họp này có thể nhận biết bằng hiện tượng uốn cong và vặn cột sống.
b. Hình thức và thao tác: Hình thức của thủ thuật bỉ là dùng phần mềm ở đầu ngón tay giữa đặt tại trọng điểm để thao tác ấn sâu vào lớp cơ trong sát với gai sống, ấn cho lớp cơ bệnh lý miết vào gai sống và lăn ngửa ngón tay, vừa lăn vừa miêt vòng tròn. Lúc đầu đưa lực từ ngoài hướng trục và tiếp theo đưa lực từ trong bỉ ra ngoài.
Chú ý:
- Thủ thuật bỉ có thể phối hợp với thủ thuật đẩy, thủ thuật rung, thủ thuật lách.
- Thủ thuật bỉ chí áp dụng với những trường hợp đốt sống lõm hoặc lệch lõm và lớp cơ bệnh lý Co, Mem, Dày, Mỏng, không áp dụng với những trường hợp Xơ, Sợi.
VI. THỦ THUẬT LÁCH
Thủ thuật lách không có hình thức riêng mà khi thao tác trị bệnh bằng các thủ thuật khác thuộc phương thức sóng, thầy thuốc cần phải chú ý lần đầu ngón tay lách rộng ra các bờ cao của lớp cơ bệnh lý để theo dõi hình thái của trọng điểm trong khi thao tác trị bệnh để kịp thời xác định trọng điểm mới.
Trọng điểm bao giờ cũng khu trú ở một trọng điểm rất nhỏ. Khi điểm nhỏ này đã tan đi (đã được giải toả) thì xung quanh hình thái một bờ cao, tại đó có điểm co nhất và cảm giác đau nhất. Điểm đau mới này được gọi là trọng điểm mới.
Hết quyển 1 .